1. Nhận thức chung về đường lối đối ngoại của Đảng

Đường lối đối ngoại của Đảng là tổng hợp các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo hoạt động đối ngoại của đất nước được hoạch định trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống ngoại giao của dân tộc, tình hình khu vực, quốc tế và đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới bằng việc “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợ p tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”, hoạt động đối ngoại thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển với tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, xác định rõ đối tác, đối tượng để có sự hợp tác và đấu tranh.

Bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng là bảo vệ định hướng, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong chỉ đạo hoạt động đối ngoại, bảo vệ việc triển khai, thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Hoạt động đối ngoại của Đảng gắn liền với các giai đoạn phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta. Ngoại giao đã luôn thể thể hiện vai trò, vị thế trên công cuộc bảo vệ và đấu tranh góp phần tích cực giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Bởi vậy, Đảng ta luôn xác định đây là một mặt trận quan trọng không thể vắng bóng trong từng giai đoạn của tiến trình cách mạng.

Kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta chủ trương thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm cả đối mới lĩnh vực đối ngoại. Với đường lối đúng đắn, khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã phát huy được sức mạnh của đối ngoại, sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới, đã xây dựng và phát triển toàn diện nền kinh tế, xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn hòa bình, độc lập, tự chủ.

Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới khởi nguồn từ Đại hội VI (năm 1986), Đại hội XIII tiếp thu, kế thừa và phát triển thêm nhiều khía cạnh, trên cơ sở tổng kết những thành tựu, bài học, với thế và lực mới của đất nước sau 35 năm đổi mới. Đại hội XIII khẳng định mục tiêu của đối ngoại là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc”, tức là đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên hàng đầu, chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn hướng đến lợi ích tối đa của quốc gia, của dân tộc. Song, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc không có nghĩa là theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đại hội XIII nhấn mạnh, thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc phải “trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đại hội XIII cũng là lần đầu tiên Đảng xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước". Đây là những nhiệm vụ cơ bản, có mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Trong đó, giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín của đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trong cuộc tiếp các Trưởng cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài nhiệm kỳ 2023-2026 vào sáng ngày 13/3/2023 tại Nhà Quốc hội đã khẳng định: "Ngoại giao đóng góp rất tích cực để đất nước có được cơ đồ, vai trò, uy tín và vị thế trên trường quốc tế như ngày nay. Ngược lại, vị thế, vai trò, uy tín của đất nước hiện nay cũng tạo điều kiện cả về thế và lực, tạo môi trường thuận lợi cho công tác ngoại giao. Phải tiếp tục nâng tầm ngoại giao để đóng góp tích cực vào việc nâng cao hơn nữa uy tín, vị trí, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế”.

Tất cả những chính sách đối ngoại đúng đắn cùng với những bước tiến mạnh mẽ, cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực mới của Việt Nam trên trường quốc tế đã cho phép dân tộc ta tổng kết và định hình một trường phái đối ngoại mang những giá trị rất đặc sắc, rất riêng biệt của truyền thống dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Một trường phái mới mẻ được sinh ra ngay từ chính lịch sử dựng nước và giữ nước, ngày càng trở nên rõ ràng qua quá trình đấu tranh và hội nhập quốc tế phong phú. Trường phái ngoại giao "cây tre Việt Nam". Trường phái ấy, được Tổng Bí thư nhận định trong Hội nghị đối ngoại toàn quốc nội hàm bao gồm những yếu tố sau:

Một là, mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt;

Hai là, linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân;

Ba là, đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc;

Bốn là, biết cương, biết nhu; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.

Xây dựng, củng cố trường phái này là Việt Nam đã biết kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là cơ sở cho dân tộc Việt Nam có thể tin tưởng cho một triển vọng tươi đẹp về đối ngoại của nước Việt Nam trong thời kỳ mới.

2. Nhận diện về các quan điểm và hoạt động phá hoại đường lối ngoại giao của Đảng trong tình hình mới

Một trong những âm mưu, mục đích chống phá dai dẳng của các thế lực thù địch là nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, của Nhà nước, của chế độ chính trị trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, chủ quyền. Sau khi tìm mọi cách để chống phá, các thế lực thì địch bắt đầu đưa ra yêu cầu rằng “Việt Nam phải đổi mới đường lối đối ngoại”, kêu gọi, kích động bạo lực. Từ đây, chúng tiến gần hơn tới mục đích cao nhất là thay đổi thể chế chính trị - xã hội tiến bộ ở đất nước ta. Trong lĩnh vực ngoại giao, âm mưu và hoạt động phá hoại bộc lộ một cách đầy nham hiểm và rất tinh vi.

 Không gian mạng vẫn luôn là môi trường dễ dàng nhất cho các đối tượng thù địch lợi dụng để phát tán những thông tin sai lệch, xuyên tạc của mình bởi đặc tính “lan tỏa nhanh” và “lan tỏa rộng rãi”. Lợi dụng các nền tảng mạng xã hội, các diễn đàn, các blog cá nhân, thông qua cái mác là những “ý kiến”, “bình luận”, “phản biện”, “phản biện trên tinh thần xây dựng”, “tâm thư”, “tư vấn”, các “nhà hoạt động”, “nhà dân chủ”, “học giả” tự xưng cố tình tạo ra trong dư luận những “cơn sóng ngược”, gieo rắc những luồng ý kiến phản khoa học. Chúng liên tục đăng những thuyết âm mưu, dự báo thiếu căn cứ nhằm hướng lái dư luận Việt Nam theo hướng tiêu cực từ đó xuyên tạc chính sách, đường lối ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nguy hiểm hơn, chúng rất khéo léo khi đổi trắng thay đen, thay đổi bản chất của các đường lối ngoại giao: dùng bức bình phong là lợi ích dân tộc, lòng yêu nước, tự do, dân chủ, hòa bình núp bóng phản biện khoa học, dân chủ và những giá trị rất nhân văn. Chúng cố gắng biến những luận điệu của trở nên thuyết phục, nhưng thực chất sai vẫn hoàn sai, sai hoàn toàn.

Thứ nhất, công khai xuyên tạc đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước, dẫn dắt dư luận theo chiều hướng tiêu cực, lôi kéo những kẻ bất mãn, phản động trong và ngoài nước bình luận, chia sẻ. Âm mưu và thủ đoạn của chúng hết sức tinh vi và nguy hiểm bởi sự lan tỏa nhanh chóng và tác động rộng khắp của nó đến nhận thức của một bộ phận nhân dân tạo nên tâm lý lo lắng, hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian gần đây, đài Châu Á Tự do (RFA), RFI, VOA, BBC,… liên tục rêu rao, phê phán, xuyên tạc đường lối đối ngoại, ngoại giao theo trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam, xem đó là đường lối ngoại giao lạc hậu, thiếu sáng tạo, không có gì mới mẻ và đột phá trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bên cạnh đó, chúng còn cho rằng chính sách quốc phòng với “ bốn không” không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế là sai lầm, thiếu đúng đắn, tự trói buộc mình và không bảo vệ được độc lập, chủ quyền.

Cho dù các thế lực thù địch có ra sức đưa ra những luận chứng để vu cáo đường lối ngoại giao của dân tộc ta, thế hệ yêu nước ngày nay vẫn luôn cố gắng xây dựng và giữ gìn đường lối ngoại giao “cây tre” độc đáo của dân tộc. Việt Nam, một quốc gia dân tộc vẫn can trường, bất khuất, chiến đấu và chiến thắng, rồi lại hòa hiếu với thế giới để phát triển cùng nhân loại. Điều đó là bản sắc do chính dân tộc ta tạo ra, tuyệt đối không phải đi cắp nhặt, đi “thuổng” ý tưởng từ bất cứ đâu. Trên thực tế, nhiều quốc gia cũng được ca ngợi là có sách lược ngoại giao mềm mỏng, cũng được ví với cây tre - cây sậy, thế nhưng sách lược ấy lại không đủ linh hoạt, mềm mại, uyển chuyển, để rồi đánh mất độc lập, tự chủ, trở nên lệ thuộc vào một quốc gia khác. Nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh nhất quyết kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Tự hào nói trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” chính là một sự ghi nhận những phẩm chất tốt đẹp, những đóng góp vĩ đại của nền ngoại giao, ngành Ngoại giao và hoạt động ngoại giao đối với lịch sử, đối với cả quá trình cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phê phán về những phát ngôn, lập trường của cơ quan chức năng về quan điểm của Việt Nam đối với những sự kiện phức diễn ra hết sức phức tạp trong khu vực cũng như quốc tế như vấn đền trên Biển Đông, xung đột giữa Nga và Ukraina… Một số thế lực cho rằng “Việt Nam thiếu chính kiến rõ ràng”, “mù mờ”, vu cáo “cộng sản Việt Nam đi hai hàng”, “hai mặt”, “ngoại giao kiểu Cộng sản Việt Nam là ngoại giao ba phải, song đề”, hay thậm chí cho rằng Việt Nam chịu sức ép tác động của thế lực nào đó mà “không dám bảo vệ chính nghĩa”.

Về thực chất, Việt Nam đã và đang hội nhập theo phương châm độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng có lợi. Trên con đường hội nhập và phát triển, với tất cả các nước, trong đó có cả Nga và Ukraine, Việt Nam luôn coi trọng, duy trì, phát triển quan hệ đối ngoại bình đẳng, trên tinh thần hợp tác cùng phát triển, phấn đấu vì thế giới hòa bình, ổn định, không có chiến tranh. Nước ta được cộng đồng quốc tế công nhận là một trong những quốc gia đóng góp nhiều sáng kiến hòa bình, tích cực tham gia đấu tranh cho hòa bình nhân loại trên cơ sở những đạo luật, luật pháp quốc tế. Trong xung đột giữa Nga - Ukraine, Việt Nam luôn kêu gọi các bên nối lại đối thoại và đàm phán, giảm căng thẳng. Những quan điểm, ý kiến đóng góp, kêu gọi mà Việt Nam bày tỏ trên các diễn đàn đa phương về các xung đột chứng tỏ Việt Nam kiên định chọn chính nghĩa, chọn lẽ phải chứ không chọn về bất cứ phe phái nào.

Thứ ba, chúng còn lợi dụng các vấn đề về biển đảo, lơi dụng sự nhận thức chưa cao của một bộ phận nhân dân để xuyên tạc, chống phá, công kích gây hoang mang dư luận. Luận điệu của chúng đưa ra là Việt Nam cần kiện các quốc gia vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông ra toà án quốc tế; cần có những biện pháp về quân sự, vũ trang để thể hiện sức mạnh, uy quyền, thái độ và quan điểm của mình so với các nước khác.

Thứ tư, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc, tuyên truyền, trắng trợn đưa ra những quan điểm sai lệch rằng Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự song nhưng thực chất lại phụ thuộc vào Trung Quốc về ý thức hệ.

Thứ năm, một số “quan điểm”, “ý kiến xây dựng” khác của các thế lực thù địch lại cố ý xuyên tạc, bóp méo những thông tin liên quan, đưa ra những thông tin sai lệch đến các vấn đề đối ngoại trong mối quan hệ của Việt Nam với các nước lớn, cổ xúy “thân”, “đồng minh”… với một số nước lớn. Chúng rêu rao Việt Nam phải làm thân, phải phụ thuộc vào một quốc gia lớn thì mới có thể phát triển được.

Thứ sáu, trong quá trình đàm phán ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương của ta, các thế lực thù địch thường xuyên thông tin sai lệch tác động lên các đối tác của ta, gây sức ép, làm ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác hữu nghi giữa hai nước để quá trình đàm phán bất lợi, ngoài ra chúng còn đan cài những vấn đề chính trị trong các nội dung kinh tế làm ảnh hưởng uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

3. Tác động của những âm mưu và hoạt động phá hoại đường lối ngoại giao của Đảng trong tình hình mới

Những luận điệu, quan điểm, dù sai lệch và phi lý một cách rõ ràng, những hoạt động mang tính chất phá hoại nham hiểm từ các thế lực thù địch đã để lại những tác động nhất định cho nền ngoại giao Việt Nam.

Ở trong nước, đây chính là những “mũi tiêm” tẩm độc xuyên vào nhận thức, thái độ của dân chúng, làm thay đổi thế giới quan của một bộ phận dân chúng. Một bộ phận người dân trở nên ngờ vực, bi quan về đường lối ngoại giao và vô hình trung cũng hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước nói chung. Khối đại đoàn kết dân tộc cũng bị đe dọa và tổn hại khi những thông tin sai lệch gây ra những luồng ý kiến trái chiều, làm chia rẽ, ly gián lòng người. Nghiêm trọng hơn, mũi tiêm ấy còn gây hoang mang, dao động, mất phương hướng, tạo tâm lý bức xúc, bất bình, chống đối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Trên trường quốc tế, đây là những cú hích tạo ra cái nhìn thiên lệch, thiếu thiện cảm của cộng đồng quốc tế về Việt Nam, thậm chí, ảnh hưởng đến đánh giá của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia về chính sách và đường lối ngoại giao của Việt Nam.

Vì lẽ đó, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là phải kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền ngoại giao của nước nhà.

4. Bảo vệ đường lối ngoại giao của Đảng và đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về đường lối ngoại giao trong thời kỳ mới

      Trong thời gian tới, để tăng cường bảo vệ đường lối, sách lược ngoại giao của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên lĩnh vực ngoại giao, chúng ta cần quan tâm và chú trọng thực hiện tốt một số định hướng, giải pháp như sau:

Một là, bảo vệ nền tảng của đường lối ngoại giao thời đại mới: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân dân ta đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba. “Thế giới còn đổi thay, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi” và tiếp tục là ánh sáng soi đường cho nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đậm đà tính nhân văn, bản sắc dân tộc và tình hữu nghị với nhân dân thế giới. Đó là mục tiêu cách mạng của Đảng và nhân dân ta, đồng thời là hoài bão của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Hai là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, sự chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Quán triệt chủ trương hội nhập quốc tế, xây dựng nền ngoại giao toàn diện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm nắm bắt cơ hội vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, vững chắc góp phần tích cực đến sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị.

Ba là, kiên quyết, tăng cường đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái về đường lối đối ngoại và ngoại giao Việt Nam. Đấu tranh phản bác cần có những phương thức phù hợp với từng giai đoạn, từng thời điểm, từng hoàn cảnh. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng triệt để không gian mạng, các phương tiện truyền thông xã hội chống phá, xuyên tạc đường lối ngoại giao, hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Bởi vậy ngoài hình thức đấu tranh thông tin truyền thống, cần bổ sung thêm những hình thức đấu tranh mới như đấu tranh trên không gian mạng, đấu tranh thông qua các phương tiện truyền thông xã hội; kết hợp giữa lan tỏa thông tin chiều rộng với ngày càng chú trọng công tác lý luận thông tin đối ngoại – đấu tranh có chiều sâu bằng lý luận bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, sai trái từ gốc; tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi thông tin với các tập đoàn, hãng thông tin lớn của thế giới, cộng hưởng sức mạnh truyền thông trong nước và quốc tế trong thông tin đối ngoại.

Bốn là, nhanh chóng, triệt để và kịp thời xử lý các hành vi xuyên tạc về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng. Quyết không để cho các thế lực thù địch có cơ hội tập hợp lực lượng, gây rối chính trị, làm mất an ninh trật tự, gây rối loạn xã hội, các hoạt động ảnh hưởng đến sự ổn định của an ninh quốc gia.

Năm là, bảo vệ vị trí và vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam là thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương quan trọng. Đồng thời Việt Nam với tư cách chủ trì đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như: Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (2008- 2009 và 2020-2021), Hội nghị cấp cao ASEAN (1998, 2010 và 2020), Hội nghị cấp cao ASEM (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC (2006, 2017), Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (2018), Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên (2019). Việt Nam cũng đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc (Bùi Thanh Sơn, 2021). Việt Nam được bầu vào Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) (2013-2015), Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IAEA (2013-2014), Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) (2015-2019), Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc (2015- 2019), Hội đồng Chấp hành UNESCO (2017-2021), và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao.

Sáu là, tăng cường bảo vệ các chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước về đối ngoại, các hoạt động đối ngoại của Quốc hội, của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại Nhân dân.

Để tiếp tục giữ gìn và phát huy những thành tưu, thành công trong đường lối đối ngoại, đồng thời góp phần phản bác lại những thông tin sai lệch, những luận điệu xuyên tạc, sai trái, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch chống phá đường lối ngoại giao ngoài vấn đề bảo vệ cũng cần phải lưu ý cả vấn đề xây dựng và phát triển. Xây dựng và phát triển nền ngoại giao “cây tre Việt Nam” cần phải chú trọng các nội dung:

Một là, xây dựng nền ngoại giao hiện đại, toàn diện với các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân. Phối hợp chặt chẽ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân; đối ngoại với quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Một trong những nội dung trọng điểm nhằm triển khai xây dựng đồng bộ, sáng tạo, có hiệu quả hoạt động đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng xác định là “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Đây vừa là một nội dung cốt lõi mang tính kế thừa tinh thần của các kỳ Đại hội trước, vừa là một bước phát triển mới về nhận thức phù hợp với tình hình thế giới và trong nước hiện nay đối với vai trò, cách thức phối hợp, triển khai các hoạt động đối ngoại, thiết lập nền ngoại giao vững chắc, tạo tiền đề cho đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, đẩy mạnh đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, nhất là với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống. Hợp tác trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng luật pháp quốc tế. Việt Nam luôn chủ trương ngoại giao hòa hiếu, là bạn là đối tác đáng tin cậy của các nước trên thế giới. Triển khai có hiệu quả các ông tác ngoại giao để đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu tăng cường hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa để phục vụ đắc lực cho phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện bảo vệ nền ngoại giao chân ch

Ba là, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động, tích cực phát huy vai trò, đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; phát huy vai trò của Việt Nam trong các tổ chức liên hiệp quốc tế trong khu vực và trên thế giới (Liên Hợp Quốc, WTO, ASEAN, các cơ chế hợp tác liên nghị viện quốc tế và khu vực (AIPA, IPU), APEC, hợp tác tiểu vùng Mekong… Những đóng góp, sáng kiến của Việt Nam tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế và khu vực được cá nước ủng hộ và đánh giá cao từ đó nâng tầm vị thế của đất nước nói chung và nền ngoại giao nói riêng đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế, tranh thủ xu hướng thời đại và phát huy thế mạnh và tiềm lực kinh tế phục vụ phát triển đất nước, lấy địa phương, doanh nghiệp và người dân làm trung tâm, khai thác triệt để tiềm lực bên trong, thu hút mạnh mẽ nguồn bên ngoài góp phần xây dựng đất nước, chủ truơng phát triển kinh tế- xã hội là trọng tâm. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch. Nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong triển khai công tác hội nhập quốc tế. Các Bộ, ngành, địa phương cần xác định và triển khai quyết liệt, có hiệu quả hơn nữa các trọng tâm, trọng điểm của công tác ngoại giao kinh tế, bám sát nhu cầu, thực tiễn của đất nước và bám sát đường lối, chủ trường, sự chỉ đạo sát sao và thống nhất của Đảng nhằm phục vụ thúc đẩy và nắm bắt cơ hội mới phát triển kinh tế đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cho hội nhập quốc tế của nước ta trở nên sâu và rộng hơn.

Năm là, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong công tác đối ngoại, nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân, công tác đối ngoại của người Việt Nam ở nước ngoài.

Sáu là, Ngành ngoại giao phải không ngừng củng cố bản lĩnh chính trị, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao.

Bên cạnh đó, cũng phải đặc biệt chú ý đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là trong giới trẻ về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử Đảng, từ đó hình thành nhân sinh quan cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực phân biệt đúng - sai, khả năng miễn nhiễm, chắt lọc trước các thông tin xấu, độc.

Kết lại, bảo vệ nền tảng tư tưởng về đường lối ngoại giao là hoạt động xuyên suốt, đi đôi, không thể tách rời với công tác ngoại giao của nước ta nhằm thúc đẩy xây dựng nền ngoại giao vững chắc, toàn diện và hiện đại trong tình hình mới hội nhập quốc tế hiện nay. Qua đó, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, ổn định chính trị, phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Vì vậy, bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng và đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng và Nhà nước là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết để kịp thời ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

Lời kết

Đối ngoại Việt Nam ngày hôm nay đã trải qua những thăng trầm, đã chứng tỏ là một mặt trận có nhiều đóng góp quan trọng, quyết định nhiều thắng lợi của đất nước. Đối ngoại của Việt Nam không được hoạch định xuyên suốt trên bất kỳ lý thuyết hay trường phái đối ngoại nào đã có trên thế giới, mà nó là sự phản ánh từ hoàn cảnh rất riêng cho một mục tiêu cao nhất: vì độc lập, tự do, hạnh phúc của quốc gia, của dân tộc và được tổng kết thành “Trường phái đối ngoại Cây tre”. Trường phái riêng biệt ấy, sẽ tiếp tục được định hình trên những triển vọng mới và khát vọng hùng cường của cả dân tộc.

Không có gì đáng mơ ước, không có gì đáng hoan nghênh hơn là cây tre Việt Nam uốn mình theo làn gió thời đại! Toàn Đảng, toàn dân luôn toàn tâm vào công cuộc xây dựng một nền ngoại giao vững chắc, toàn diện và hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong công cuộc đó, bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng và Nhà nước phải diễn ra thật quyết liệt và phải đặc biệt được quan tâm, chú trọng, thực hiện thường xuyên.

Chu Thị Hồng Anh, Trần Quốc Bảo, Bùi Quang Huy,
Nguyễn Quốc Huy, Nguyễn Duy Khang, Nguyễn Văn Tài Lương

Học viện An ninh nhân dân, Bộ Công an