Đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng là nhiệm vụ của tất cả nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Là giảng viên giảng dạy lý luận chính trị, người có trách nhiệm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thì đây được xem nhiệm vụ hàng đầu. Phạm vi bài viết này, làm rõ quan diểm, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, đồng thời, phản bác lại luận điệu của lực lượng phản động, các thế lực thù địch cho rằng Đảng đã hết vai trò lịch sử, không đủ điều kiện lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội là một nguyên tắc hiến định, không thể phủ nhận, xuyên tạc, bác bỏ. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định qua việc Đảng đã vận dụng tính đúng đắn, sáng tạo, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình đấu tranh giành chính quyền, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nữa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ, nhân dân trở thành chủ thể đất nước. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng một đất nước ngày càng phát triển với nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế ngày càng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần.
Thực tế hiện nay, lực lượng phản động đã bất chấp mọi trở ngại, tìm mọi cách khác nhau để thực hiện các thủ đoạn với âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam không còn đủ uy tín để huy động sức mạnh tổng hợp của giai cấp công nhân, lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng đã lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm một bộ phận nhỏ cán bộ lãnh đạo, có chức vụ, quyền hạn lạm dụng quyền hạn của mình thực hiện những hành vi tham nhũng, tiêu cực gây lãng phí, thâm hụt ngân sách nhà nước; những hành vi vi phạm đạo đức lối sống... Mục đích cuối cùng của chúng là làm lung lay niềm tự hào dân tộc, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, kích động, xúi giục nhân dân thực hiện những hành vi chống phá nhà nước, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng một nhà nước kiểu mới phục vụ cho lợi ích riêng của chúng.
1. Cơ sở pháp lý, lý luận khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại các bản Hiến pháp của Việt Nam. Ngay từ mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đãđặt ra nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng khung pháp lý, tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cụ thể để Đảng, nhà nước lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ và dựng đất nước. Trước năm 1946, đất nước còn nhiều khó khăn, vừa thoát khỏi chế độ phong kiến nô lệ, đời sống nhân dân còn lầm than, kỹ thuật lập pháp còn hạn chế, thiếu toàn diện. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 không có điều khoản quy định sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, xã hội, bởi vì, lúc bấy giờ Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật. Đây là một kế sách của Đảng, tuyên bố tự giải tán để tránh những bất lợi, có điều kiện quy tụ sức mạnh dân tộc và vẫn tiếp tục lãnh đạo nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến Đại hội Đảng lần thứ III, tháng 9/1960, Đảng chính thức công khai hoạt động với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam. Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, Đảng lấy lại tên gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, do đất nước còn trong điều kiện chiến tranh, để vừa lãnh đạo nhân dân vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động, Đảng không công khai hoạt động, nhưng vẫn thể hiện vai trò lãnh đạo nhân dân hoàn thành công cuộc giành, giữ đất nước, xây dựng nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đến Hiến pháp năm 1980, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được hiến định. Điều 4, Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam”. Lần đầu tiên, vai trò lãnh đạo được cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật cụ thể, đây cũng chính là nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam, thể hiện sự tin yêu của nhân dân đối với Đảng. Chỉ có Đảng là lực lượng duy nhất có khả năng, đủ uy tín, quyền lực để lãnh đạo nhân dân và đất nước. Kế thừa và phát triển, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Theo đó, Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, đi trước đứng đầu, đối diện với tất cả những khó khăn thử thách, mục tiêu cuối cùng là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân vì nhân, làm sao để nhân dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân chủ, bình đẳng, tất cả vì quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ là lời nói suông, mà điều đó được khẳng định bởi tính khoa học, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Đảng ta ra đời trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết khoa học nhất và cách mạng nhất, một học thuyết thể hiện tình yêu thương con người, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi vì lý tưởng độc lập, tự do của nhân dân, khoan hồng, dung lượng đối với tất cả mọi người trên thế giới, không phân biệt đối xử. Đối với những người tin tưởng, yêu mến Đảng sẽ cung cấp cho họ một thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật để học có những suy nghĩ, bước đi đúng, khoa học, sáng tạo phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của xã hội loại người. Từ đó, con người có thể tự xây dựng cho mình cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đối với những người lầm đường, lạc lối; chủ nghĩa Mác-Lênin cũng tạo cho họ những phương pháp luận chủ yếu để nhận thức, tư duy và hành động đúng đắn. Tất nhiên, đây không phải là việc dễ, Đảng, Nhà nước đã bằng nhiều cách thức, phương pháp khác nhau để vận động tuyên truyền, thậm chí là xử lý vi phạm với tinh thần khoan hồng dung lượng tất người biết lỗi, nhận lỗi và mong muốn được phục vụ cho nhà nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra những quy luật phát triển kinh tế mới, đó là sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng, con đường duy nhất xây dựng thành công nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ cho con người thấy rõ rằng, chủ nghĩa tư bản mặc dù đã tạo ra cho con người những điều kiện về kinh tế, vật chất tốt hơn; nhưng tất cả chỉ vì mục tiêu thu nhiều lợi nhuận phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, lực lượng chiếm số ít trong xã hội nhưng nắm trong tay tất cả mọi tư liệu sản xuất. Chúng dùng mọi thủ đoạn để bóc lột sức lao động của người làm thuê, sẵn sàng đạp lên tất cả cái gọi là tự do, bình đẳng, nhân ái để đạt mục đích của mình là giá trị thặng dư. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ con đường giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, đó là con đường đấu tranh cách mạng, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó cũng chính là những cơ sở khoa học để Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và đưa những quan điểm khoa học đó vào lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng thành công nhà nước kiểu mới như hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết tâm lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước vì nhân dân, phục vụ cho nhân dân. Với quan điểm: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” [1].
2. Cơ sở thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Để khẳng định vai trò lãnh của Đảng trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể nhìn lại thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến nay. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đã được Đảng, Nhà nước quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước. Ngay tại Điều 1, Hiến pháp năm 1945 đã khẳng định điều đó: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đây chính là cơ sở pháp lý khẳng định rằng tất cả các hoạt động của nhà nước, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mà nhân dân ở đây chính là tất cả các dân tộc Việt Nam, không phân biệt vùng miền, thành phần... tất cả nhân dân đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền và nghĩa vụ như nhau trong tất cả mọi lĩnh vực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng nhìn nhận những sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế bao cấp đã làm cho cuộc sống của nhân dân rơi vào trạng thái bị động, đời sống lầm than. Vì vậy, Đảng đã chủ trương cải cách tổ chức bộ máy nhà nước theo đường lối đổi mới, Đảng quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo. Vẫn quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, nhưng với cách làm mới, phương pháp mới Đảng đã có những bước tiến trong xây dựng và phát huy quyền làm chỉ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng đã trực tiếp ghi nhận chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” [2]. Đến nay, qua 20 năm thực hiện, Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước kiểu mới với nhiều thành tựu to lớn. Từ một nước nông nghiệp, kinh tế bao cấp với hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, Việt Nam đã thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp). Từ nền kinh tế lạc hậu, tự cung, tự cấp đến nay Việt Nam đã thoát nghèo, vươn lên trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng theo hướng phát triển du lịch và dịch vụ - nhà nước vì nhân dân phục vụ cho lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Hiện nay, công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền có những bước tiến vượt bật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện” “Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội thể hiện rõ hơn”; “Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo gỡ các rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển” [3]. Kết quả đó được thể hiện qua việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước; quy mô, trình độ phát triển nền kinh tế; phát huy dân chủ; cải thiện đối với đời sống nhân dân, uy tín của Việt Nam đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước trên thế giới. Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Kết quả, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, giảm nhiều tầng nấc, khâu trung gian,cụ thể: giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp, nhất là ở các địa phương đã giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; giảm 08/713 đơn vị hành chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã [4]. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan được phân định rõ ràng, không chồng chéo, Chính phủ phân cấp quyền hạn nhiều hơn cho chính quyền cơ sở trong phục vụ nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trên tất cả các lĩnh vực; 85,48% người dân và tổ chức hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước [5]. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch sang hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Năm 2020, tốc độ tăn trưởng nền kinh tế Việt Nam ước tính đạt khoảng 2,91%, quy mô nền kinh tế đạt 343 tỷ USD, thuộc nhóm các nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ sáu ASEAN [6].
Mặc dù công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng cũng có những hạn chế nhất định. Những hạn chế này chủ yếu là do nhận thức hành động của một số ít đội ngũ cán bộ, đảng viên như tham nhũng, lãng phí, vi phạm đạo đức lối sống... Những hành động này được Đảng nghiêm khắc chỉ ra và có những biện pháp xử lý, làm cho những những cán bộ, đảng viên ấy nhìn nhận sai lầm và sữa chữa khuyết điểm. Đó chỉ là số ít trong nhà nước, chúng ta không thể lấy số ít những sai lầm ấy mà phủ nhận toàn bộ thành quả của Đảng từ trước đến nay. Để hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Đảng quan tâm công tác xây dựng Đảng; xây dựng, đổi mới hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm cho đội ngũ đảng viên ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm giữ gìn sự trong sạch về tư tưởng, đạo đức ngày càng trong sáng, tiên phong, gương mẫu đi đầu trên mọi mặt trận. Cụ thể, Đảng đã lãnh đạo nhà nước xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Đề án này là sự cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền (Nghị quyết Trung ương VIII khóa XII). Đề án tập trung thực hiện quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền; khẳng định nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, mọi hoạt động của nhà nước đều đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Khi có sai lầm, khuyết điểm, nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Những kết quả này chính là nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Đảng gần gũi với nhân dân, thấu hiểu nhân dân, là người bạn thân thiết với nhân dân, thấu hiểu nguyện vọng, lòng dân. Trên cơ sở đó, Đảng đã ra những chủ trương phù hợp với tâm nguyện của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tin tưởng và hành động theo Đảng. Đảng ban hành chủ trương, nghị quyết; Nhà nước cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật và triển khai thực hiện đưa các văn bản ấy vào cuộc sống; chính quyền các cấp xây dựng các chương trình, đề án, kế hoạch để thực hiện; các tổ chức chính trị-xã hội tuyên truyền vận động; nhân dân tin tưởng vun đắp bằng cả tinh thần và vật chất thực hiện. Sự cố gắng không ngừng của chính quyền các cấp, kết hợp với sức dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là chìa khóa mang lại thành công cho công cuộc xây dựng đất nước chúng ta ngày hôm nay.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài Đảng cộng sản Việt Nam, không một tổ chức nào có thể quy tụ được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Nếu thế lực thù địch cho rằng Đảng đã hết vai trò, không đủ khả năng lãnh đạo nhà nước và xã hội, vậy thì tổ chức nào có đủ khả năng ấy? Thực tế, đó chỉ là chiêu trò của chúng với mục đích chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Tục ngữ Việt Nam có câu “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “một cây” thể hiện sự đơn độc, “ba câychụm lại” thể hiện sự đoàn kết thống nhất thành một khối vững chắc. Như vậy, có thể nói tình đoàn kết, gắn bó, khắng khít của nhân dân Việt Nam đã có từ xưa đến nay, là một truyền thống quý báu của dân tộc. Và các thế lực thù địch với mưu đồ chia nhỏ, chia rẽ dân tộc, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một số người trong xã hội, lôi kéo kích động để lật đổ “từng cây”. Nhưng, điều đó không bao giờ xảy ra. Vì dưới sự lãnh đạo tài ba của Đảng cộng sản, nhân dân Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước. Đảng đã là niềm tin, là lẻ sống, là dòng máu ngấm sâu vào cơ thể sống của nhân dân.
3. Giải pháp phát huy trách nhiệm của giảng viên trường chính trị trong nhận thức và hành động vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với vai trò là giảng viên trường chính trị, người có trách nhiệm tuyên truyền, bảo vệ thành quả của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để học viên nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về những chủ trương đường lối của Đảng. Qua đó, giảng viên trường chính trị định hướng tư tưởng cho học viên là những cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương để họ có hành động đúng, bảo vệ thành quả của Đảng, bảo vệ công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân. Để phát huy được vai trò này, giảng viên trường chính trị cần thức hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, giảng viên trường chính trị luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng là thể hiện rõ lập trường, quan điểm của mình trong đấu tranh, bảo vệ thành quả, vai trò lãnh đạo của Đảng; không dao động, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân; không để bất kỳ ai, vì lý do gì có thể làm lung lay quan điểm, nhận thức của mình. Khi phân tích, nhận định bất kỳ vấn đề nào trong nhà nước, trong xã hội cũng dựa vào những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lý giải, làm rõ vấn đề. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, được Đảng khẳng định, bổ sung, phát triển và thực hiện nhất quán trong quá trình đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, nhờ kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xây dựng đất nước độc lập, tự do, hòa bình, ổn định, phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được ấm no, hạnh phúc. Một trong những bài học kinh nghiệm trong tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đảng đã nhấn mạnh: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Ðảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [7].
Thứ hai, tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng trong giảng dạy lý luận chính trị. Để làm được điều đó, trong giảng dạy lý luận chính trị, giảng viên phải truyền đạt đúng, đủ các nội dung của Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội dung giảng dạy phải đảm bảo tính khách quan, khoa học và tính Đảng. Trong giảng dạy, giảng viên phải phân tích, so sánh, đánh giá làm nổi bật giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu to lớn mà Đảng ta đạt được; khẳng định niềm tin, niềm tự hào của mình, của dân tộc đối với Đảng, đối với thành quả cách mạng mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được trong suốt 91 năm qua và sự trung thành, tin tưởng của mình đối với sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới. Qua đó, học viên có nhận thức đúng, đủ những nội dung cơ bản cũng như ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam cũng như sức sống của nó trong tình hình hiện nay; làm cho nó thấm sâu vào nhận thức, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, lấy nó làm nền tảng tinh thần, định hướng tư tưởng cho hành động cách mạng, đồng thời, sẽ tạo được nhiệt huyết, sự tin tưởng tuyệt đối của học viên đối với nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, chủ động, tích cực đấu tranh với các quan điểm sai trái thù địch. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển của internet, mạng xã hội; các thế lực thù địch lợi dụng những sai lần của Đảng trong quá khứ, lợi dụng mặt trái của nền kinh tế thị trường, một số hạn chế trong quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực như: vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, môi trường, an ninh trật tự... để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng. Để bảo vệ, giảng viên phải am hiểu, thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để định hướng tư tưởng cho học viên, chỉ ra những âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, không để những quan điểm sai trái đó lan tỏa trong xã hội. Khi phát hiện những quan điểm, tư tưởng, nhận thức, phát ngôn mơ hồ, lệch lạc, sai lầm, giảng viên phải phân tích, cung cấp những luận chứng khoa học để chứng minh quan điểm, tư tưởng, phát ngôn đó là sai để kịp thời ngăn chặn những nhận thức sai trái. Đồng thời, giảng viên chủ động nghiên cứu, viết bài đăng trên các báo, tạp chí, trang thông điện tử của Trường, địa phương để góp phần bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, thực hiện tốt vai trò nêu gương bằng những hành động thiết thực, cụ thể. Trong công việc, giảng viên luôn tâm huyết, trách nhiệm, đặt lợi ích tập thể lên trên, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Trong cuộc sống hàng ngày ở cơ quan, ở địa phương, giảng viên thể hiện nêu gương qua những hành động cụ thể như: thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trung thực, giản dị, không xa hoa, lãng phí, gây mất đoàn kết nội bộ, tích cực tham gia các phong trào do cơ quan, địa phương phát động. Khi tham gia mạng xã hội, giảng viên phải có thái độ dứt khoát để phản bác, chấn chỉnh những người đưa những thông tin không rõ nguồn gốc, sai lệch và tuyệt đối không sử dụng, chia sẽ những thông tin ấy. Những hành động tuy nhỏ nhưng cũng góp phần để gia đình, quần chúng, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không để kẻ thù lôi kéo đi ngược lại chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tóm lại, chúng ta luôn khẳng định rằng Đảng công sản Việt Nam là lực lượng duy nhất đủ sức mạnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh, giành độc lập dân tộc, tiến hành công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Chúng ta, công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, tự mình bằng nhận thức, hành động cụ thể để quyết định sự phát triển, phồn vinh của đất nước. Với niềm tin, nghị lực trí tuệ của mình, chúng ta phải thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng đã đặt ra. Để làm được điều đó, nhiệm vụ đầu tiên mà công dân Việt Nam phải làm chính là bảo vệ thành quả của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2004, t.4
[2] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2007, t.53, trang 225
[3] Đảng công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H, 2021, trang 71, 72
[4] Tiếp tục xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng-Báo nhân dân điện tử ngày 28/4/2021
[5] Bộ Nội vụ, Công bố chỉ số cải cách hành chính năm 2020 của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cà Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020
[6] TS. Nguyễn Minh Phong-ThS Nguyễn Minh Trần Trí-Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam, Báo nhân dân điện tử ngày 10/1/2021
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H, 2021, trang 33
Trần Thị Quỳnh Nghi