Kỳ 1: Bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung: Bài học kinh nghiệm trong thời kỳ “phá rào” kinh tế 1975 - 1985
Ngày 30/4/1975 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử khi đất nước Việt Nam chính thức thống nhất sau khi trải qua hai cuộc kháng chiến chống lại các thế lực ngoại xâm và tay sai của chúng. Tuy nhiên khi cuộc chiến đã lùi về quá khứ, “một số nhận thức thích ứng với bối cảnh lịch sử trước đây không còn phù hợp thậm chí trở thành lực cản của sự phát triển” (1).
Đấu tranh cải tạo cái cũ, xây dựng xã hội mới trong thời kỳ hòa bình tưởng như là một nhiệm vụ đơn giản hơn nhưng kỳ thực không kém phức tạp, đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi người cán bộ phải dũng cảm, năng động, sáng tạo thay vì thực thi công việc theo những chủ trương, quy định đã không còn phù hợp với thực tiễn.
Nhìn lại giai đoạn sau giải phóng 1975-1985, không ít cán bộ, đảng viên đã nhận thức một số cơ chế, chính sách, chủ trương của Đảng trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa có những điểm cần xem xét lại. Tuy nhiên “những ý nghĩ này vẫn còn rất dè dặt và hạn chế” (2). Tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm bủa vây người cán bộ bất chấp sự búc xúc về cơ chế làm ăn tập thể, cơ chế mua bán theo giá kế hoạch, thiếu nguyên liệu, thiếu ngoại tệ v.v liên tục gây ách tắc cho sản xuất và đời sống. Không chỉ vậy, sự khủng hoảng trên nhiều mặt của mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô trong thời kỳ này khiến người cán bộ cần tìm ra con đường phát triển riêng của Việt Nam nhưng vẫn phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh ấy, những tấm gương đi đầu trong tiến hành đột phá, “xé rào” trong kinh tế như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Hơn, Nguyễn Văn Chính, Ba Thi v.v đã góp phần quan trọng đưa đất nước đến thời kỳ Đổi mới. Bàn về những nhân vật tiêu biểu này, sử gia kinh tế Đặng Phong viết “Đó là những người từng nổi tiếng dũng cảm và kiên cường tại các nhà tù đế quốc. Với những con người đầy hào quang cách mạng như thế, khó ai có thể nghi ngờ về lập trường và phẩm chất của họ. Nếu không có những “bùa hộ mệnh” này, cũng khó có thể đột phá thành công” (3) .
Dù vậy, nhận định của Đặng Phong chỉ phản ánh một mặt của vấn đề. Bởi lẽ, nhắc đến thành công này, phải kể đến công tác bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, trong đó có sự bảo lãnh chính trị của những lãnh đạo cao nhất của Đảng đối với một số vấn đề hoàn toàn mới mà chính họ cũng chưa thực sự đồng tình. Có thể nhắc đến nhiều trường hợp đích thân các Ủy viên Bộ chính trị đã đứng ra bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung: Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ bảo vệ mô hình thí điểm áp dụng cơ chế giá thị trường với việc mua và bán ở Long An; Võ Chí Công, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Thủy sản và Phó Thủ tướng phụ trách nông-lâm-ngư nghiệp cho phép thí điểm các hợp tác xã đánh cá kiểu mới, khoán nông nghiệp ở Vĩnh Phú, Hải Phòng; Bí thư Thành ủy Tp Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt cho phép Công ty lương thực Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề thu mua lương thực của nông dân theo cơ chế thị trường v.v.
Từ những sự kiện nêu trên có thể thấy rằng, ngay từ trước thời kỳ Đổi mới, quan điểm của đa số đảng viên cao cấp trong Đảng có sự thống nhất, đồng thuận về vấn đề bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, bất chấp không ít chủ trương trong số này có nhiều điểm khác, thậm chí mâu thuẫn với tư duy cũ. Tuy nhiên, phải thấy rằng những quan điểm trên không được hệ thống thành các văn bản với những định nghĩa, tiêu chí cụ thể về công tác bảo vệ cán bộ. Hơn nữa, Đảng ta cũng chưa bàn sâu, bàn kỹ về xử lý các trường hợp cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi chung nhưng kết quả công việc lại thất bại, không đạt được đầy đủ mục tiêu đề ra. Cũng như, thiếu các cơ chế khuyến khích, khen thưởng có tính chất đãi ngộ xứng đáng.
Bên cạnh đó, quá trình đổi mới không chỉ giúp kinh tế Việt Nam khắc phục được những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, mà còn đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế; từ đó nảy sinh hàng loạt vấn đề mới “chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm (…) như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v..” (4)
Khi không có bài học, mô hình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm ở Việt Nam, bắt buộc chúng ta phải “trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam” (5).
Xét trong tình hình mới, việc đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa làm, vừa sửa là một lẽ tất yếu, tuân theo quy luật khách quan tưởng chừng không phải bàn thêm. Nhưng đấy là chưa tính đến những trở lực do nền kinh tế thị trường gây ra, bao gồm cả nạn quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi núp bóng hoạt động xây dựng chính sách, quản lý hành chính, hoạt động quản lý kinh tế, công tác cán bộ. Những khó khăn trong việc bổ sung và phát triển Chủ nghĩa Marx-Lenin trong thời đại ngày nay cũng dẫn đến hiện tượng một số cán bộ “bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội” (6) , đưa ra những nhận xét, ý kiến trái với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước.
Chính thực tế này khiến nhiều năm qua, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thu về được nhiều kết quả tích cực trong các công tác này. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng cũng được đẩy mạnh khi Đảng ta sẵn sàng tinh lọc, loại bỏ những đảng viên kém phẩm chất, thiếu năng lực và uy tín.
Tuy vậy, một số quyết định kỷ luật cán bộ, đảng viên được nhìn nhận là quá nghiêm khắc, nhất là với những sai lầm có thể sửa chữa được, sai lầm xuất phát từ lợi ích chung, sai lầm khách quan do không thể phát hiện được với nền tảng lý luận, khoa học kỹ thuật, cơ chế, chính sách tại thời điểm thực hiện nhiệm vụ, giải pháp.
Hiện nay, Quy định số 41-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ ban hành ngày 3/11/2021 chưa quy định chi tiết về việc bố trí công tác đối với cán bộ sau khi miễn nhiệm, từ chức, chưa khuyến khích người cán bộ, đảng viên sửa sai, tiếp tục đóng góp công sức, trí lực cho sự nghiệp cách mạng.
Trong khi trước đó, Nghị quyết số 03-NQ/HNTW của BCHTW Đảng (Khóa VII) nhận định: “không định kiến với những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa” (7).
Mặt khác, trên tiến trình xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tính thượng tôn pháp luật trong các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo đó các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (khoản 3 Điều 4, Hiến pháp 2013). Vì vậy, những hình thức bảo vệ cán bộ dựa trên bảo đảm bằng danh dự, chỉ thị miệng, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu tổ chức đảng không phù hợp với pháp luật hiện hành, mâu thuẫn với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền. Và hiện tượng éo le xảy ra trong đời sống là “để bảo vệ được cán bộ thì phải… làm trái luật” (8).
Từ các nguyên nhân trên, công tác bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung đang vấp phải nhiều khó khăn khách quan lẫn chủ quan. Nhìn rõ thực tế này, ngày 19/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TW Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhấn mạnh việc “Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung” (9).
Ngày 22/9/2021, Bộ chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Sau đó không lâu, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung” (10) .
Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ đã tiến hành xây dựng 3 dự thảo Nghị định Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung đồng thời tổ chức nhiều hội thảo và các hoạt động lấy ý kiến góp ý từ đội ngũ chuyên gia đến các tầng lớp nhân dân. Không chỉ vậy, nhiều ý kiến cho rằng Quốc hội cần thiết phải xây dựng luật về vấn đề này.
Tất cả những điều này cho thấy, xây dựng và bảo vệ đội ngũ cán bộ có tài, có tâm, có tầm là nhiệm vụ cấp bách song không thể chùn bước. Bài học kinh nghiệm trong thời kỳ “phá rào” kinh tế 1975 – 1985 cho thấy cán bộ sẽ phát huy toàn tâm toàn lực vì lợi ích chung khi có sự bảo đảm, bảo vệ của Đảng và Nhà nước.
Chú thích:
(1) GS. TS Nguyễn Phú Trọng: Đổi mới và phát triển ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia 2008, tr.36
(2) Đặng Phong: Tư duy kinh tế Việt Nam: 1975-1989, Nxb. Tri thức 2014, tr. 147
(3) Đặng Phong: “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới, Nxb. Tri thức 2017, tr.488
(4) GS. TS Nguyễn Phú Trọng: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển, Tạp chí Cộng sản điện tử, 22/1/2007
(5), (6) GS. TS Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, 16/5/2021
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng (khoá VIII), về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Hệ thống tư liệu – văn kiện Đảng, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
(8) Quang Phong – Phương Thảo: “Nhiều trường hợp để bảo vệ được cán bộ thì phải… làm trái luật!”, Báo Dân trí điện tử, ngày 10/11/2020.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hệ thống tư liệu – văn kiện Đảng, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản, ngày 29/10/2021
Nguyễn Hải Đăng
Báo Nhân dân