Kỳ 2: “Lá chắn thép” bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau với nội dung cơ bản dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo C.Mác và Ph.Ăng ghen, dân chủ là một phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”1.
Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị. Theo Người “… Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”2.
Dân chủ cơ sở là một bước tiến mới trong nhận thức lý luận dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta. Trong quá trình thực thi quyền lực bao gồm quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực nhà nước, cấp cơ sở có vai trò quan trọng bởi đây là nơi trực tiếp làm việc với Nhân dân, trực tiếp đón nhận và trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cấp trên tại cơ sở. Do đó, có thể khẳng định, cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của cộng đồng dân cư cùng toàn thể địa bàn; dân chủ ở cơ sở được ví như “chiếc cầu nối” giữa dân với Đảng; giữa trung ương với chính quyền địa phương. Từ quá trình triển khai trong thực tiễn, quần chúng phát hiện ra những hạn chế, bất cập trong chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhân dân sẽ phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy và chính quyền cơ sở đề xuất, kiến nghị đến Đảng, Nhà nước và cấp trên thực hiện điều chỉnh kịp thời.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, để công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được thông tin, thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”1. Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và đúc kết bài học kinh nghiệm: trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tinh thần đó xuyên suốt các kì Đại hội tiếp theo của Đảng ta.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục kế thừa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát” song nhấn mạnh và bổ sung thêm yếu tố “dân thụ hưởng” - nghĩa là dân làm thì dân phải được thụ hưởng, nếu làm mà không được thụ hưởng thì không tạo động lực để dân làm. Động lực chính là lợi ích; lợi ích phải hài hòa giữa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước với phương châm tổng quát và tạo thành một “vòng tròn khép kín”, đó là: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”2.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” - coi đây là một khâu quan trọng và cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Giá trị cốt lõi xuyên suốt từ bản Hiến pháp năm 1946 đến bản Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta đó là giá trị dân chủ. Trong các bản Hiến pháp đều nhất quán quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Đặc biệt, ngày 10/11/2022, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Với 6 chương, 91 điều, Luật đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, khẳng định trên thực tế quyền con người, quyền công dân, chủ quyền của nhân dân theo nguyên tắc hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định về nội dung, cách thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở, cụ thể hóa phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Cụ thể là, những nội dung công khai để dân biết (các quy định liên quan đến nội dung và hình thức công khai thông tin để dân biết ở tất cả các loại hình cơ sở theo hướng cập nhật, bổ sung các quy định tương ứng trong các luật chuyên ngành có liên quan); những nội dung dân bàn và quyết định (tại thôn, tổ dân phố; tại cơ quan, đơn vị và tại tổ chức có sử dụng lao động); những nội dung dân tham gia ý kiến (các quy định liên quan đến nội dung và hình thức nhân dân tham gia ý kiến ở tất cả các loại hình cơ sở phù hợp với các luật chuyên ngành có liên quan);những nội dung dân kiểm tra, giám sát (kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực, phát huy dân chủ, tăng tính phản biện và sức sáng tạo của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở) và những nội dung dân thụ hưởng (người dân được nhà nước và pháp luật công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền về thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan; được thông tin đầy đủ về các quyền và lợi ích hợp pháp, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội theo quy định của pháp luật và của chính quyền địa phương mà mình được hưởng; được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, chế độ an sinh xã hội và sự an toàn, ổn định của đất nước, của địa phương và ở cộng đồng dân cư nơi sinh sống; thành quả đổi mới, phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động nơi làm việc; được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng).
Để nhân dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình, Luật bổ sung quy định công dân sinh sống tại cộng đồng dân cư có sáng kiến đề xuất các công việc trong nội bộ cụm dân cư, tổ dân phố không trái với quy định của pháp luật và phù hợp với thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội và có 1/3 chữ ký đồng thuận của cử tri tại cộng đồng dân cư thì gửi trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố để đưa ra cộng đồng dân cư thảo luận, quyết định. Quy định này nhằm tăng cường việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Với đạo luật này, thực hiện dân chủ ở cơ sở không còn là khẩu hiệu chung chung mà đã trở thành quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền của người dân, nhân dân đã có công cụ pháp lý vững chắc để thực hiện quyền làm chủ của mình. Người dân được biết, được bàn, được giải phóng sức sản xuất và sáng tạo, được kiểm tra, giám sát, tài chính công khai, minh bạch hơn, từ đó nhân dân có điều kiện thực tế để thụ hưởng những thành tựu mà dân chủ mang lại.
Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành và thực hiện trên thực tế là rất thiết thực, thể chế hóa quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hiện thực hóa ý nguyện, tâm tư của người dân về quyền làm chủ của nhân dân. Với mục tiêu, quan điểm và những quy định mới trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, chúng ta không cho phép bất cứ thế lực nào phủ nhận, xuyên tạc, hạ thấp giá trị của Luật này.
Nguyễn Thị Đắc Hương
Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng
1Hồ Chí Minh (1952), Bài nói tại Hội nghị cung cấp toàn quân, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 434
2Hồ Chí Minh (1947), Sửa đổi lối làm việc, II. Mấy điều kinh nghiệm, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 284.
1Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2011, tr. 84-85.
2Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr. 27.