Việt Nam là quốc gia đa dạng tôn giáo, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thống nhất và nhất quán nguyên tắc “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Trên cơ sở những quan điểm mang tính định hướng của Đảng, Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo với mục tiêu bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Mặc dù vậy, một bộ phận các phần tử cực đoan, chống đối, thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đặc biệt, bằng những thủ đoạn khác nhau, các phần tử này tìm mọi cách xuyên tạc về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, ảnh hưởng không nhỏ tới hình ảnh của Việt Nam trên thế giới và nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung, quyền tự do tôn giáo nói riêng, nhất là thực tiễn hoạt động tôn giáo sinh động của tín đồ, chức sắc, thủ đoạn của một bộ phận cực đoan cũng chỉ là tiếng nói lạc lõng, thậm chí là điều kiện để dư luận trong và ngoài nước có thêm những dữ liệu quan trọng để nhìn nhận khách quan về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam cả trong chính sách lẫn thực tiễn.
1. NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng kể từ khi ra đời cho đến nay luôn phải đối mặt với các hành động, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cực đoan dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc từ đó hướng tới mục tiêu cản trở quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Đối với vấn đề tôn giáo, từ thực dân, phát xít, đế quốc đến các lực lượng chống đối trong và ngoài nước luôn coi đây là lĩnh vực có thể lợi dụng để phục vụ cho các mục đích chính trị đen tối chống phá cách mạng. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, các tôn giáo dù lớn hay nhỏ đều bị lợi dụng ở những mức độ khác nhau dẫn đến sự phân hóa thái độ chính trị của mỗi tôn giáo, gây rất nhiều khó khăn cho cách mạng trên con đường giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chế độ xã hội mới. Điều dễ nhận thấy trong các giai đoạn trước đây cũng như hiện nay là các đối tượng này luôn sử dụng chiêu bài tự do tôn giáo để xuyên tạc về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và quyền tự do tôn giáo nói riêng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, thủ đoạn xuyên tạc quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được các thế lực thù địch sử dụng dưới nhiều hình thức tinh vi nhằm thu hút sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước.
+ Thứ nhất, lợi dụng Internet để lập các trang Web, các trang mạng xã hội như: Youtube, facebook, blog… để phát tán, đăng tải các video, hình ảnh, bài viết với danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền”, “đấu tranh vì dân chủ”..., xuyên tạc về chính sách tôn giáo, bôi nhọ quyền tự do tôn giáo của Việt Nam
Một trong những thù đoạn phổ biến hiện nay là lực lượng thù địch, phần tử cực đoan trong và ngoài nước lợi dụng internet để xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về quyền tự do tôn giáo. Theo thông tin từ Cục A02, Bộ Công an cho biết: Hiện nay có khoảng trên 5000 trang web, fanpage của các tổ chức phản động lưu vong đã và đang tuyên truyền thông tin xuyên tạc về vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Điển hình của hoạt động lợi dụng dưới hình thức này có các trang như: https://www.viettan.org, facebook.com/viettan; youtube.com/viettan của tổ chức đảng Việt Tân https://www.facebook.com/tudodanchudanguyen/ của khối 8406; baotiengdan.com; “tổ chức cứu người vượt biển” (BPSOS); “Quỹ người Thượng” (MFI); “Nhân quyền người Thượng” (MHRO); “Hội đồng liên kết quốc nội – ngoại” …Đối tượng đứng ra thành lập các trang web, mạng xã hội là các thành phần phản động, cực đoan đang sinh sống ở nước ngoài như Nguyễn Đình Thắng, Ngô Thị Hiền…Các đối tượng này móc nối với một số thành phần cực đoan ở trong nước như Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh…của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất[1], Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam (đạo Công giáo)… để tuyên truyền, xuyên tạc nói xấu Đảng, Nhà nước, bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh; móc nối, lôi kéo, phát triển lực lượng và kích động đấu tranh lật đổ chế độ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Các đối tượng cực đoan ở trong nước thường lợi dụng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có những vấn đề nảy sinh để kích động người dân, tín đồ tổ chức các cuộc biểu tình, tuần hành quay video để phát tán lên các trang mạng xã hội do chúng thành lập. Điển hình là các vụ việc như: ngày 29/2/2009 Thích Quảng Độ đã thông qua internet đã ra “Lời kêu gọi” trong đó có nội dung phê phán việc khai thác Bô xít Tây Nguyên từ đó kích động Phật tử và người dân chống lại nhà nước bằng các hoạt động như: nông dân không ra đồng, công nhân không đến công xưởng…Vào dịp 30/4/2017 hai Linh mục Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục lợi dụng sự cố môi trường biển kích động giáo dân tham gia các hoạt động gây mất trật tự an toàn xã hội trên các địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh. Trên trang “Baotiengdan”, Nguyễn Công Bình – Linh mục Giáo phận Vinh và Nguyễn Mạnh Hùng – Mục sư tại thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Các tôn giáo thay vì được tự do để thành nhà giáo dục lương tâm cho xã hội thì bị chế độ tìm mọi cách để bó buộc im tiếng hay biến thành công cụ”. Thời gian gần đây, khi Việt Nam ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo, rất nhiều đối tượng cực đoan, chống đối sử dụng mạng xã hội để đưa ra các quan điểm sai trái, phi lý để phản đối. Các đối tượng này cho rằng việc ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo là đi ngược xu hướng của thế giới với mục đích “hạn chế”, “kiểm soát” hoạt động tôn giáo, chẳng hạn như Phan Văn Lợi – một Linh mục cực đoan, có nhiều hành vi chống phá Đảng và Nhà nước viết trên trang cá nhân với tiêu đề: “Việt Cộng vừa hoàn thành sợi dây thòng lọng tròng vào cổ các tôn giáo, cực lực phản đối Luật tôn giáo của Hà Nội, một luật man rợ, phi lý, chỉ nhằm bóp nghẹt tự do tôn giáo và củng cố quyền lực của Đảng”…
+ Thứ hai, thông qua các tổ chức quốc tế, các diễn đàn “bàn tròn đa tôn giáo”, “Bàn tròn tự do tôn giáo quốc tế”… các đối tượng này đưa ra các “bằng chứng” mang tính chủ quan, phiến diện về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam
Hoạt động này diễn ra khá phổ biến và có tác động lớn đến xã hội, nhất là những người ít có thông tin chính xác, khách quan về Việt Nam. Điển hình là các tổ chức phản động lưu vong như Việt Tân; “tổ chức cứu người vượt biển” (BPSOS); “Quỹ người Thượng” (MFI); “Nhân quyền người Thượng” (MHRO); “Hội đồng liên kết quốc nội – ngoại” tăng cường liên kết, móc nối với một số cá nhân cực hữu trong chính giới Mỹ, EU, tổ chức NGO quốc tế để cung cấp các thông tin phiến diện, thiếu khách quan, xuyên tạc sự thật về tình hình tôn giáo Việt Nam. Các đối tượng cầm đầu các tổ chức này lập các “hồ sơ vi phạm tự do tôn giáo”, “danh sách tù nhân lương tâm tôn giáo” để chuyển cho Bộ Ngoại giao Mỹ và một số tổ chức quốc tế vu cáo Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền” và kêu gọi các tổ chức này gây sức ép với chính quyền Việt Nam. Thông qua các thông tin phiến diện, một chiều do các đối tượng phản động cung cấp, Mỹ và các nước phương Tây gia tăng sự can thiệp, gây sức ép với Việt Nam về vấn đề tự do tôn giáo, ủng hộ, hậu thuẫn cho các tổ chức phản động lưu vong và số chức sắc cực đoan trong các tổ chức tôn giáo gia tăng các hoạt động chống Đảng và Nhà nước. Điển hình là hàng năm Bộ ngoại giao Mỹ công bố báo cáo về tự do tôn giáo ở Việt Nam và gần đây nhất là năm 2020 trong đó đưa ra các “bằng chứng” mang tính chủ quan, phiến diện, một chiều, trong đó chủ yếu xoay quanh việc hạn chế hoạt động của một số đối tượng như Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Văn Toàn do có những hành vi kích động, chống đối chính quyền ở trong nước ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, chống đối Đảng và Nhà nước; Thông qua câc thông tin mang tính phiến diện, các tổ chức, cá nhân cực đoan trong giới chức Mỹ và EU tổ chức gặp mặt các tổ chức, cá nhân cực đoan trong nước để tìm hiểu và đưa ra các tuyên bố sai trái, thiếu khách quan về tự do tôn giáo ở Việt Nam[2].
+ Thứ ba, đấu tranh đòi hỏi những điều mang tính chất phi lý nhưng không được đáp ứng, từ đó vu cáo nhà nước vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn giáo
Đây là những thủ đoạn mà một bộ phận cực đoan, chống đối ở trong nước thường lợi dụng nhằm gây sức ép với Nhà nước, các tổ chức tôn giáo hợp pháp để đòi hỏi những điều phi lý riêng của chúng. Liên quan đến hoạt động này, các đối tượng như Thích Không Tánh, Thích Hộ Giác, Thích Như Huệ, Thích Minh Tâm…lên án Nhà nước Việt Nam đàn áp “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, đòi khôi phục và thừa nhận hoạt động hợp pháp của tổ chức này, đòi trả lại Việt Nam Quốc Tự để làm trụ sở hoạt động. Các thành phần chống đối trong Phật giáo Hòa Hảo như Lê Văn Sóc, Lê Quang Hiến kêu gọi một bộ phận tín đồ và thành phần cực đoan đòi thành lập “Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo thuần túy”. Các đối tượng như Hứa Phi, Lê Thị Nho, Đoàn Công Danh, Bạch Phụng trong tổ chức “Cao Đài 1926” không thừa nhận sự tồn tại của các tổ chức Cao Đài được Nhà nước công nhận đòi thành lập tổ chức đối lập, không đặt dưới sự quản lý của Nhà nước…Mặc dù tất cả các đối tượng này đều biết rằng các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận là hợp pháp, duy nhất và được đa số tín đồ, chức sắc của các tổ chức tôn giáo chân chính thừa nhận. Các đối tượng này kích động người dân, tín đồ gây rối, chống đối chính quyền, vu khống nhà nước vi phạm quyền tự do tôn giáo khi các đòi hỏi phi lý không được đáp ứng.
2. QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM – SỰ THẬT KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN
2.1. Quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền tự do tôn giáo tôn giáo
Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam: kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quyền tự do tôn giáo được khẳng định như là một giá trị của chế độ xã hội mới và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cùng với quá trình phát triển đất nước.
Lần lượt các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 được ban hành và khẳng định một cách nhất quán quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản, Tự do tổ chức và hội họp, Tự do tín ngưỡng, Tự do cư trú, đi lại trong và ngoài nước”[3]. Quyền cơ bản này được tiếp tục khẳng định và phát triển trong Hiến pháp 1959 “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”[4]. Đến Hiến pháp 1980 được quy định chặt chẽ và cụ thể hơn: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”[5]. Quyền tự do tôn giáo được thể hiện một cách nhất quán trong các Hiến pháp phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người và thực tiễn hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, quyền tự do tôn giáo không phải là tuyệt đối mà nó bị giới hạn bởi luật pháp của mỗi quốc gia khi quyền đó vi phạm tới lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền tự do của người khác. Khoản 2, điều 18 Công ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị ghi rõ: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”[6]. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam – một quốc gia đa tôn giáo và hoạt động lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho các mục đích khác khá phổ biến. Những quy định về quyền tự do tôn giáo sau này tiếp tục được cụ thể hóa thêm một bước trong hai văn bản pháp luật quan trọng là Nghị quyết số 297-CP về “Một số chính sách đối với tôn giáo” ngày 11-11-1977 của Chính phủ và Nghị định 59-HĐBT “Quy định về các hoạt động tôn giáo” ngày 21-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng.
Công cuộc đổi mới toàn diện trước hết là đổi mới tư duy là bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển đất nước. Trong lĩnh vực tôn giáo, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới nhận thức, ứng xử với tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân trên cơ sở khắc phục một số hạn chế trước đây, đồng thời, đưa ra các biện pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình mới. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị khóa sáu năm 1990 về tôn giáo và công tác tôn giáo được ban hành với nhiều luận điểm mang tính đột phá về nhận thức đối với tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên quan đến quyền tự do tôn giáo, Nghị quyết 24 khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”[7]. Cụ thể hóa nhận thức này, đồng thời kế thừa các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp 1992 được ban hành trong đó khẳng định rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo vệ. Không ai được xúc phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”[8]. Những vấn đề mang tính chất Hiến định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Hiến pháp 1992 cụ thể hóa thêm một bước. Theo đó, ngoài các quy định được kế thừa trong các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 cụ thể hóa nhiều vấn đề mới: phân biệt rõ hai phạm trù tín ngưỡng và tôn giáo cho phù hợp với niềm tin và thực hành tôn giáo của nhân dân trong bối cảnh mới; đề cao vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; nhất quán thực hiện quyền bình đẳng giữa các tôn giáo; các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Tiếp nối Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và những quy định của Hiến pháp 1992 về quyền tự do tôn giáo, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (khoá IX) về công tác tôn giáo được ban hành ngày 12-3-2003 tiếp tục phát triển , quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo thêm một bước phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Trong Nghị quyết này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”[9]. Cụ thể hóa quan điểm này, tháng 6 năm 2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều quy định liên quan đến quyền tự do tôn trong đó ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xúc phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau”[10]. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành là sự phát triển quan trọng trong chính sách về tự do tôn giáo tạo ra hành lang pháp lý để Nhà nước bảo vệ nhu cầu về đức tin chính đáng của công dân mà không ai được phép xúc phạm. Đặc biệt, sự ra đời của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 không phải là một “quy định riêng” mà nó được đặt trong mối quan hệ tổng thể với luật pháp quốc tế về quyền con người, trong đó khẳng định: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có qui định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của Điều ước quốc tế”[11].
Hiến pháp 2013 ra đời là dấu mốc quan trọng trong chính sách, pháp luật của Việt Nam về quyền tự do tôn giáo. Nhiều luận điểm và quy định mới mang tính chất tiến bộ, phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn về quyền con người nói chung, quyền tự do tôn giáo nói riêng được khẳng định và cụ thể hóa. Điều 24 (Chương II) của Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Điều đặc biệt quan trọng đáng chú ý thể hiện quan điểm mang tính đổi mới, tiến bộ trong chính sách tôn giáo của Việt Nam được thể hiện trong Hiến pháp 2013 nằm ở hai quy định quan trọng: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là của mọi người và Nhà nước tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Những nội dung mang tính Hiến định này hoàn toàn phù hợp và thống nhất với các quy định quốc tế về Quyền con người.
Nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 2013, ngày 18/11/2016 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Việc ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo là kết quả của quá trình thể chế hóa Hiến pháp về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong Luật, vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tách thành một chương riêng (chương II) và đưa ra nhiều quy định để bảo đảm quyền con người. Đặc biệt, trên cơ sở Hiến định, Luật tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể hóa nhiều nội dung về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với tư cách là quyền của tất cả mọi người. Đáng chú ý, lần đầu tiên trong lịch sử Luật đưa ra các quy định cụ thể đối với đối tượng bị tạm giam, tạm giữ, điều 6 khoản 5 ghi rõ: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”[12]. Quy định này thể hiện tính toàn diện về quyền con người trong cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam nói chung và Luật tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Theo đó, Nhà nước bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đối với mọi người ngay cả đối với những người bị tước quyền công dân. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay, một bộ phận rất lớn người nước ngoài vào Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau, Nhà nước đưa ra nhiều quy định nhằm bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đối tượng này nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra[13]. Đương nhiên, giống như các quy định quốc tế về quyền con người và luật pháp của tất cả các quốc gia trên thế giới, Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng cụ thể hóa các “giới hạn” trong việc thực hiện quyền tự do tôn giáo[14]. Điều này hoàn toàn hợp lý, hợp pháp, hợp Hiến và tuân thủ các quy định trong công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc là thành viên của các tổ chức quốc tế.
Như vậy, cùng với quá trình phát triển của đất nước, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bảo đảm quyền con người phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đặc biệt, sự ra đời của Luật tín ngưỡng, tôn giáo với rất nhiều điểm mới liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là yêu cầu khách quan nhằm bảo đảm cho quá trình hiện thực hóa các quyền cơ bản của con người trong thực tế. Điều này không phải là một sự “tăng cường” các biện pháp quản lý như luận điệu của một bộ phận cực đoan mà là cơ sở để Nhà nước bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả mọi người.
Xuất phát từ thực tế khách quan về vai trò của tôn giáo, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới, trong đó lần đầu tiên
vấn đề phát huy nguồn lực của các tôn giáo được đề cập mở ra cơ hội cho các tôn giáo hiện thực hóa vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vấn đề này được cụ thể hóa trở thành quan điểm chính thức được đề cập trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trong Văn kiện quan trọng này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước.”[15].
Quan điểm mang tính đột phá này là minh chứng quan trọng cho việc đổi mới nhận thức một cách thường xuyên, liên tục của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và vai trò của tôn giáo nói riêng. Thông qua định hướng của Đảng, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay và giai đoạn tiếp theo.
2.2. Quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam – Bức tranh từ thực tiễn
Vấn đề tôn giáo nói chung và quyền tự do tôn giáo nói riêng là vấn đề cơ bản, quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm giải quyết. Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về quyền tự do tôn giáo qua các giai đoạn cách mạng là điều kiện, cơ sở cho hoạt động tôn của các tôn giáo được diễn ra một cách bình thường đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của tín đồ, chức sắc tôn giáo. Đặc biệt, với những nhận thức mang tính đột phá của Đảng và quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ đổi mới đến nay đã làm chuyển biến căn bản tình hình tôn giáo ở nước ta, bức tranh sinh hoạt tôn giáo trở nên sôi động và đa dạng, từ sinh hoạt của tín đồ đến hoạt động của chức sắc và các tổ chức tôn giáo, từ việc xuất bản kinh sách tôn giáo đến xây dựng và sửa chữa cơ sở thờ tự, từ các hoạt động từ thiện đến mối quan hệ quốc tế của các cá nhân và tổ chức tôn giáo.
Theo số liệu thống kê từ Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến tháng 11/2020 nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau với 26.548.509 tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, trong đó có 58.104 chức sắc, 148.046 chức việc, 29.801 cơ sở thờ tự. So với năm 2019, số lượng tín đồ tăng 15.334 người, chức sắc tăng 695 người, chức việc tăng 1.018 người, cơ sở thờ tự tăng 141 cơ sở[16]. Điều đáng chú ý ở đây biểu hiện ở sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong thực hiện quyền tự do tôn giáo đó là sự công nhận tổ chức cho các tôn giáo. Nếu như trước đổi mới do nhiều nguyên nhân khách quan, Nhà nước mới công nhận cho 3 tổ chức (Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) thì đến năm 1999 có 6 tổ chức được Nhà nước công nhận, năm 2011 có 34 tổ chức thuộc 13 tôn giáo được Nhà nước công nhận và đến nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận. Bức tranh về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện trên rất nhiều phương diện, ở đây được khái quát và đánh giá trên một số vấn đề cơ bản sau:
+ Thứ nhất, sự gia tăng số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc của các tôn giáo
Ở Việt Nam, cùng với sự đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền tự do tôn giáo, số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc ngày càng có sự phát triển ở tất cả các tôn giáo (xem bảng).
Biến động tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo 2003-2016
STT |
Tôn giáo |
Tín đồ |
Chức sắc |
Chức việc |
|||
2003 |
2016 |
2003 |
2016 |
2003 |
2016 |
||
1 |
Phật giáo |
9.063.638 |
13.811.418 |
20.305 |
30.225 |
41.311 |
67.545 |
2 |
Công giáo |
5.512.287 |
6.623.481 |
3.410 |
5.172 |
18.997 |
30.327 |
3 |
Tin Lành |
582.438 |
932.326 |
451 |
1.741 |
2.312 |
7.868 |
4 |
Cao Đài |
811.903 |
1.086.349 |
8.567 |
12.498 |
14.582 |
22.819 |
5 |
Phật giáo Hòa Hảo |
1.218.137 |
1.392.067 |
14 |
99 |
575 |
1.515 |
6 |
Hồi giáo |
65.597 |
77.275 |
516 |
589 |
113 |
223 |
7 |
Tôn giáo khác |
173.613 |
336.381 |
918 |
2.029 |
1.023 |
3.363 |
Tổng |
17.427.613 |
24.289.297 |
34.181 |
52.893 |
78.913 |
133.662 |
(Nguồn:Tài liệu lưu trữ tại Ban Tôn giáo Chính phủ)
Căn cứ vào số liệu trên cho thấy, tỷ lệ tín đồ, chức sắc, chức việc đều có sự gia tăng nhanh chóng ở tất cả các tôn giáo trong những năm gần đây. Trong đó, một số tôn giáo có tỷ lệ gia tăng nhanh chóng như Phật giáo, Tin Lành. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó việc đổi mới chính sách, pháp luật về tôn giáo nói chung, quyền tự do tôn giáo nói riêng tạo điều kiện cho nhân dân tham gia sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu của cá nhân. Các tôn giáo có điều kiện và cơ hội điều chỉnh, mở rộng phạm vi hoạt động tùy theo khả năng của mình trên cơ sở pháp luật mà không có sự ràng buộc hay kiểm soát từ Nhà nước. Đặc biệt, trong những năm gần đây diễn ra xu hướng chuyển đạo, đổi đạo trong sinh hoạt của các tín đồ, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ở Tây Bắc, một bộ phận người Dao, Mường, Thái, Mông trở thành tín đồ Phật giáo. Ở Tây Nam bộ, trong số 1,3 triệu người Khơme trước đây chủ yếu là tín đồ của Phật giáo Nam Tông, hiện nay có khoảng 2.000 người theo Tin Lành, 3.000 người theo đạo Công giáo. Khu vực Tây Nguyên, năm 2002 có 1.644 người dân tộc Cơ Ho ở bản Gung Ré, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng theo Phật giáo đến năm 2009 cộng đoàn này tăng lên 6.000 người. Năm 1975, đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành là 55.000 người thì đến năm 2017 đã tăng lên 775.000 người[17].
+ Thứ hai, sự gia tăng cơ sở thờ tự của các tôn giáo
Trước sự gia tăng tỷ lệ tín đồ và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, trong những năm gần đây Nhà nước luôn tạo điều kiện để các tôn giáo xây dựng, tôn tạo, sửa chữa cơ sở thờ tự phục vụ cho hoạt động tôn giáo. Chỉ tính riêng cơ sở thờ tự của tôn giáo (không tính cơ sở thờ tự của các loại hình tín ngưỡng), năm 2003 cả nước có 20.929 cơ sở thờ tự thì đến năm 2016 là 27.916 cơ sở thờ tự[18]. Trong đó một số tôn giáo có số lượng cơ sở thờ tự tăng nhanh như Phật giáo (2003 là 13.476 và 2016 là 17.912 cơ sở thờ tự), Công giáo (2003 là 5.860 và 2016 là 7.445 cơ sở thờ tự), Tin lành (2003 là 226 và 2016 là 599), Cao Đài (2003 là 907 và 2016 là 1.265 cơ sở thờ tự). Trong những năm vừa qua, để đáp ứng nhu cầu của các tôn giáo tất cả các địa phương tìm cách tháo gỡ vướng mắc và quy hoạch quĩ đất tạo điều kiện cho các tôn giáo xây dựng cơ sở thờ tự và mở rộng địa điểm sinh hoạt tôn giáo phù hợp với thực tế. Theo thống kê của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, hiện nay các tổ chức tôn giáo đang quản lý và sử dụng gần 30.000 cơ sở thờ tự và vị trí đất trên diện tích đất khoảng 133 triệu m2, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gần 19.000 cơ sở, chiếm 62,47 số cơ sở mà các tôn giáo đang sử dụng[19]. Thời gian gần đây, nhiều tổ chức tôn giáo được chính quyền các địa phương cấp đất với diện tích lớn phục vụ cho việc mở rộng hoạt động, điển hình là Phật giáo (quần thể chùa Tam Chúc tại Hà Nam với diện tích 5.100 ha, quần thể chùa Bái Đính tại Ninh Bình 539ha, chùa Giám tại Nghệ An 30ha…); Đà Nẵng cấp 5.000m2 xây dựng trụ sở của Hội truyền giáo Cơ Đốc Việt Nam, 10.000m2 mở rộng Tòa Giám mục Đà Nẵng; Quảng Trị cấp 15ha mở rộng khuôn viên Trung tâm hành hương Đức mẹ La Vang…v.v.[20]
+ Thứ ba, các tôn giáo được tạo mọi điều kiện để xuất bản các ấn phẩm tôn giáo
Nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các tổ chức tôn giáo, nhà nước tạo điều kiện để các tôn giáo thành lập các trang web, xuất bản tạp chí, báo, bản tin, kinh sách và các ấn phẩm tôn giáo. Tất cả các tổ chức tôn giáo đều thành lập các website riêng và nhiều trang mạng xã hội phục vụ cho công tác tuyên truyền. Chỉ tính riêng nhà xuất bản tôn giáo đến năm 2014 có khoảng 4.347 đầu sách, 1.121 văn hóa phẩm được xuất bản với số lượng lớn (riêng Kinh Thánh xuất bản trên 1 triệu bản[21]. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc. Năm 2020, có 5.000 bản in Kinh thánh bằng tiếng Ê Đê, 3.000 bản in Kinh thánh tiếng Gia Rai. Tính đến năm 2020, ở Việt Nam cấp toàn đạo của các tổ chức tôn giáo có 15 tờ báo và tạp chí đang hoạt động.
Sự phát triển của các ấn phẩm tôn giáo trong những năm gần đây, đặc biệt là các website, các trang mạng xã hội là minh chứng rõ nét cho quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo sử dụng các phương tiện thông tin phục vụ cho hoạt động tôn giáo, nhất là việc truyền giáo, góp phần mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình một cách sâu rộng trong đời sống xã hội.
+ Thứ tư, hoạt động đào tạo của tôn giáo phát triển mạnh mẽ thông qua việc thành lập các cơ sở đào tạo
Đào tạo chức sắc là một trong những hoạt động cơ bản của các tổ chức tôn giáo nhằm không ngừng nâng cao trình độ thần học và thế học đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển mỗi tôn giáo. Trước thời kỳ đổi mới, số cơ sở đào tạo tôn giáo còn hạn chế, chủ yếu của Phật giáo và Công giáo nhưng không hoạt động thường xuyên. Sau đổi mới, đặc biệt là từ 1990 đến nay, Nhà nước luôn tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo mở rộng hoạt động đào tạo dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo thống kê, kể từ khi đổi mới cho tới năm 2017, các Tổ chức tôn giáo đã cử 1.100 nghìn chức sắc đi tu học nước ngoài ở bậc sau đại học, trong đó Phật giáo có số lượng lớn nhất với hơn 700 người[22]. Đối với hoạt động đào tạo ở trong nước, tính đến nay, nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo thành lập 64 cơ sở đào tạo chức sắc với tổng số trên dưới 10.000 học viên đang theo học[23] (Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 48 cơ sở; Giáo hội Công giáo Việt Nam có 8 Đại chủng viện và 1 Học viện; Hội thánh Tin Lành Việt Nam có 4 cơ sở; các Hội thánh Cao Đài có 2 cơ sở; Phật giáo Hòa Hảo có 1 cơ sở.
Xuất phát từ tính chất quan trọng của công tác đào tạo chức sắc của các tổ chức tôn giáo, chính sách và pháp luật của nhà nước ngày càng được đổi mới theo hướng tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được công nhận hành lập cơ sở đào tạo. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tôn giáo trong bối cảnh mới.
+ Thứ năm, hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo không ngừng được mở rộng
Quan hệ quốc tế là một trong những hoạt động được các tôn giáo ở Việt Nam coi trọng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Cùng với quá trình đổi mới hoạt động đối ngoại nói chung, đối ngoại tôn giáo được nhà nước tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo mở rộng lĩnh vực này nhằm tăng cường sự hợp tác, phối hợp của tôn giáo trong và ngoài nước. Theo thống kê không chính thức của Ban Tôn giáo Chính phủ trong thời gian từ 2005 đến 2013 có 205 đoàn khách tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo và có 1.343 đoàn thuộc tổ chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam tham gia hoạt động quốc tế ở nước ngoài[24]. Một số tôn giáo lớn như Công giáo, Phật giáo thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, tọa đàm mang tính quốc tế tại Việt Nam. Chẳng hạn, đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam, ngoài mối quan hệ về mặt tổ chức còn có mối quan hệ ở cấp độ cấp Nhà nước để giải quyết những vấn đề 2 bên cùng quan tâm[25]; Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã 3 lần đứng ra tổ chức các Đại lễ Vesak tại Việt Nam, gần đây nhất là Đại lễ Vesak 2019 tại Trung tâm văn hóa Phật giáo Tam Chúc, Hà Nam với sự tham dự của trên 3.000 đại biểu chính thức (trong đó có 570 phái đoàn quốc tế với 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ; 250 kiều bào là tăng ni, nhà nghiên cứu, Phật tử từ hơn 40 quốc gia; trên dưới 50.000 lượt tăng, ni, Phật tử tham dự các hoạt động bên lề của đại lễ[26]…
Có thể nói rằng, để vẽ nên bức tranh thể hiện một cách rõ nét quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam cần phải có cái nhìn toàn diện, hệ thống ở mọi khía cạnh của chính sách cũng như thực tiễn thực hành đời sống tôn giáo của tín đồ, chức sắc. Tuy nhiên, trên một số phương diện cơ bản trên cũng đã đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam là một trong những vấn đề nguyên tắc mang tính Hiến định. Quan trọng hơn, các nguyên tắc này có sự thay đổi căn bản theo chiều hướng ngày càng tiến bộ, tích cực cả trong chính sách lẫn thực tiễn góp phần quan trọng vào sự ổn định trong đời sống sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc tôn giáo ở Việt Nam. Vai trò của các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được khẳng định trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trở thành “nguồn lực” quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng như thực tiễn về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam góp phần quan trọng giới thiệu với thế giới về hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới, hòa bình, ổn định và phát triển, từ đó nâng cao ảnh hưởng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự hoàn thiện về chính sách, pháp luật và thực hành quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng sinh động để đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc tình hình tôn giáo nói chung, quyền tự do tôn giáo nói riêng của một bộ phận thành phần thiếu thiện chí, cực đoan, thù địch. Đánh giá về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, Hòa thượng Thích Thanh Quyết – Trưởng ban giáo dục Tăng, Ni của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Tôi thấy ở nước ta, tín ngưỡng, tôn giáo rất được tự do, tự do đến mức độ được tôn trọng. So với các nước trong khu vực, tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam ít nhất là không kém, thậm chí còn nhiều mặt cao hơn và thể hiện rõ nhất niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tôn giáo Chính phủ, Tài liệu lưu trữ
2. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng quan quan hệ quốc tế các tôn giáo ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học 2013, tài liệu lưu trữ.
3. Đỗ Quang Hưng (2008), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
4. Nguyễn Phú Lợi (2010), Sự biến đổi đời sống tôn giáo ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Luật tín ngưỡng, tôn giáo (hiện hành) (2017), Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2017.
6. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995
7. Hoàng Khắc Nam (2004), Xung đột tôn giáo nhìn từ góc độ quan hệ quốc tế, Nghiên cứu tôn giáo, số 4.
8. Nguyễn Nghị Thanh (2009), Công nghệ thông tin và tôn giáo, Nghiên cứu tôn giáo, số 10.
9. Trịnh Quốc Tuấn, Hồ Trọng Hoài (2007), Toàn cầu hóa và tôn giáo, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
10. Nguyễn Thanh Xuân (2020), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
11. Nguyễn Thanh Xuân (2019), Xu hướng biến đổi tôn giáo và tác động đến đời sống xã hội ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đang đặt ra, phương hướng giải quyết, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp nhà nước (KX.04.20/16-20), Hà Nội.
[1] Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ra đời tháng 1/1964 tại Sài Gòn với sự hợp nhất của 11 hệ phái, tổ chức Phật giáo ở Miền Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, đến tháng 11/1981 với sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Tổ chức duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước, ngoài nước thì tổ chức này không còn tồn tại với tư cách là một tổ chức độc lập
[2] Tổng lãnh sự Mỹ, Đức đã có cuộc tiếp xúc với một số đối tượng trong “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” để nắm tình hình về việc “đàn áp, sách nhiễu, phá hủy các cơ sở thờ tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”. Thượng nghị sĩ Mỹ Marco Rubio (Florida), Jonh Cornyn (Taxas) đã gửi thư cho Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần theo dõi đặc biệt, áp dụng một số biện pháp trừng phạt Việt Nam.
[3] Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 10.
[4] Sdd, trang 30
[5] Sdd, trang 98 - 99
[6] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
[7] Nghị quyết 24 – NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 16 tháng 10 năm 1990 “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”
[8] Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 159
[9] Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về công tác tôn giáo
[10] Ban Tôn giáo Chính phủ, tài liệu phổ biến pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà xuất bản tôn giáo, Hà Nội, 2004, trang 7-8.
[11] Sdd, trang 30
[12] Luật tín ngưỡng, tôn giáo (hiện hành), Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2017.
[13] Điều 8, Luật tín ngưỡng, tôn giáo ghi rõ:
1. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền:
a) Sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo;
b) Sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung;
c) Mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo;
d) Vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam;
đ) Mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.
[14] Điều 5, Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định các hành vi bị nghiêm cấm
1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo:
a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.171
[16] Tài liệu lưu trữ tại Ban Tôn giáo Chính phủ
[17] Nguyễn Thanh Xuân, Báo cáo tổng quan đề tài cấp Nhà nước KX.04.20/16-20 “Xu hướng biến đổi tôn giáo và tác động đến đời sống xã hội ở Việt Nam: những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đang đặt ra, phương hướng giải quyết”, Hà Nội, 2019
[18] Tài liệu lưu trữ tại Ban Tôn giáo Chính phủ
[19] Tài liệu lưu trữ tại Ban Tôn giáo Chính phủ
[20] Nguyễn Thanh Xuân, Những con số liên quan đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 6/2019
[21] Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, 2020, tr439
[22] Thích Đức Thiện, Thành tựu của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế, đăng trong sách “Đời sống tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Thanh Xuân và Lê Tâm Đắc đồng chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, H.2019, tr347
[23] Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, 2020, tr435
[24] Ban Tôn giáo Chính phủ, Báo cáo tổng quan quan hệ quốc tế các tôn giáo ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học 2013, tài liệu lưu trữ, H.2013, tr45.
[25] Kể từ năm 1990 đến năm 2018, giữa Việt Nam và Vatican đã có 18 cuộc gặp gỡ, trao đổi ở cấp nhà nước bàn các vấn đề cụ thể liên quan đến quan hệ đối ngoại trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của các bên. Tính riêng trong thời gian gần đây, thông qua các hoạt động ngoại giao, 2 bên đã có những cuộc gặp gỡ ở cấp nguyên thủ quốc gia, chẳng hạn: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Giáo hoàng Benedictus XVI ngày 25 tháng 01 năm 2007; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gặp Giáo hoàng Benedictus XVI ngày 11 tháng 12 năm 2009; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp Giáo hoàng Benedictus XVI ngày 23 tháng 2 năm 2014; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gặp Giáo hoàng Benedictus XVI ngày 22 tháng 03 năm 2014; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Giáo hoàng Fraciscus tại Tòa thánh Vatican ngày 18 tháng 12 năm 2014; Chủ tịch nước Trần Đại Quang gặp Giáo hoàng Fraciscus ngày 23 tháng 11 năm 2016.
[26] Tài liệu lưu trữ của Bộ Nội vụ.
Nguyễn Công Trí