“Dân tộc ta, nhân dân ta, non song đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch-Người Anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non song đất nước ta”. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, mãi soi sáng con đường đưa dân tộc ta đi tới hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc.
“Dân tộc ta, nhân dân ta, non song đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch-Người Anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non song đất nước ta”[1]. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, mãi soi sáng con đường đưa dân tộc ta đi tới hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc.
Đứng trước những giá trị vô cùng to lớn và quý báu, sức sống trường tồn của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và thời đại, lẽ tất yếu các thế lực phản động và thù địch luôn hằn học, coi việc xuyên tạc, chống phá bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như xuyên tạc, bóp méo, thậm chí bôi nhọ tiểu sử, sự nghiệp Hồ Chí Minh, với mục đích đánh đổ “huyền thoại”, đòi “giải thiêng” Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, mà các thế hệ người Việt Nam cũng như thế giới đã ghi nhận, tôn vinh. Đây cũng là một “hợp phần” của dàn hoà tấu trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Trong số những âm mưu và thủ đoạn nêu trên, xuất hiện từ trước đến nay ở trong nước và nước ngoài, chúng ta thấy có không ít bài viết, trả lời phỏng vấn,… của những người “nhân danh” học giả, nhà nghiên cứu lịch sử khi đưa ra những luận điệu thể hiện nhận thức lệch lạc, võ đoán, thậm chí bóp méo, xuyên tạc sự thật lịch sử về vai trò và hoạt động, cống hiến của Hồ Chí Minh đối với lịch sử cách mạng Việt Nam, khi cho rằng: Việc đi ra nước ngoài, mục đích ban đầu của Hồ Chí Minh chỉ là nhằm tìm con đường “du học” ở Pháp để sau đó ra làm việc cho Pháp (!), chứ không phải là tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam; Hồ Chí Minh bắt đầu nảy sinh tư tưởng cứu nước kể từ khi Pháp bác đơn xin học Trường Thuộc địa (!), v.v và v.v.
Không mấy khó khăn để nhận ra mưu đồ, với dụng ý xấu xa và thâm độc của những thế lực phản động, thù địch, bất mãn với chế độ, đó là từ xuyên tạc động cơ, mục đích xuất dương tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội/giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh, đi đến phủ nhận vai trò của Người đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Điều nguy hại của âm mưu, thủ đoạn này là: một mặt, dễ gây nên sự hoang mang, dao động trong một bộ phận nhân dân ta về nền tảng tư tưởng và con đường đi lên của dân tộc; và sâu xa hơn, đi đến phủ nhận tính khoa học và cách mạng của con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh và dân tộc ta đã chọn lựa và kiên định mục tiêu, lý tưởng. Từ đó, nhằm tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng và ý thức hệ, để các thế lực phản động và thù địch dễ bề đưa các tư tưởng phi vô sản, tư tưởng tư sản vào đời sống tinh thần tư tưởng của xã hội ta. Do đó, việc nhận diện và đấu tranh có hiệu quả, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có mục đích tìm đường cứu nước gắn liền với tầm vóc, giá trị lịch sử của việc tìm ra con đường giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh là một nội dung rất quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vậy, thực tiễn lịch sử vấn đề này như thế nào? Đâu là sự thật và chân lý?
Cho đến đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, dân tộc ta đắm chìm trong ách nô lệ, bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho mỗi người dân Việt Nam yêu nước đương thời là phải tìm ra đường lối cứu nước, đưa dân tộc ta đi tới độc lập, tự do, hạnh phúc. Bối cảnh lịch sử này về sau đã được Hồ Chí Minh lột tả rõ nét trong bài viết Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay (1-1959): “Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”[2]. Điều đó đã khiến Hồ Chí Minh biết bao suy tư trăn trở về thời cuộc, về vận nước và con đường cứu nước. Nhưng làm thế nào và đi theo hướng nào để đạt mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người Việt Nam? Định hướng cho cách mạng là vấn đề trọng đại nhất hồi đầu thế kỷ XX. Nhưng “Đi ngả nào mới tới đích? Đường cứu nước là đường nào? Trong khi các chí sỹ lớn tuổi đi tìm ở hướng Đông (Nhật), rồi ở hướng Bắc (Tàu), thì người thanh niên Nguyễn Tất Thành đi sang Châu Âu (1911). Tìm cách đánh đuổi thực dân Tây phương mà đi về hướn Tây. Đi ngược chăng? Chưa ai dè rằng đi ngược về xuôi”[3]. Rõ ràng, ý chí, động cơ tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã được khẳng định, chứng tỏ từ trong nước. Nó dựa trên cơ sở chắc chắn từ truyền thống và thực tiễn yêu nước, cách mạng của gia đình và quê hương. Bằng chứng là Người đã lưu tâm, tìm hiểu kỹ và rút ra nhận xét rất xác đáng về con đường cứu nước của cha ông đương thời; đã hành động cùng đồng bào biểu tình chống sưu thuế ở Huế, năm 1908, để rồi quyết chí xuôi Nam, không tiếp tục con đường học tập hay làm thầy giáo của mình. Đặt vấn đề trở lại, với điều kiện là con Phó bảng, làm việc trong triều đình; bản thân thông minh, đang học tại trường Quốc học..., để mưu cầu danh lợi bản thân hay được làm việc cho Pháp, điều đó không khó với Hồ Chí Minh. Song, Người đã chọn con đường kháng Pháp; từ biệt gia đình, quê hương để dấn thân vào con đường cứu nước, cứu dân. Tư tưởng, ý chí, quyết tâm đó phải thực sự lớn lao, khát khao đến cháy bỏng trong con người Hồ Chí Minh. Hơn nữa, với Người thời điểm này, qua sự giáo dục và trải nghiệm, học là để giúp dân, giúp nước, không phải học để ra làm quan: “Lập thân tối hạ thị văn chương” và “Quan trường là nô lệ trong đám nô lệ càng nô lệ hơn”.
Ngày 5-6-1911, từ bến Nhà Rồng (Sài Gòn) với tên gọi Văn Ba, Người xuống làm thuê trên con tàu Amian Latusơ Tơrêvin của Hãng tàu buôn Sácgiơ Rêuyni của Pháp, bắt đầu hành trình khát vọng thực hiện quyết tâm cứu nước, cứu dân. Sau một hành trình dài vượt biển, ghé qua cảng Xinhgapo (8-6-1911), cảng Côlômbô (14-6-1911), cảng Xait (Ai Cập, 30-6-1911), ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến Mácxây - một hải cảng quan trọng của nước Pháp. Tiếp đó là hành trình tới Lơ Havơrơ (15/7/1911) và Đoongkét (26-8/1911) - một hải cảng của Pháp trên bờ biển Măng Sơ. Từ đây, Người bắt đầu những ngày đầu tiên của hành trình trên đất Pháp, để khám phá những điều mới lạ về văn minh và “khai hoá văn minh” ở ngay chính quê hương của Đại cách mạng Pháp mà chủ nghĩa thực dân Pháp vẫn rêu rao ở xứ thuộc địa.
Ngày 15/9/1911, Nguyễn Tất Thành viết đơn gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp trình bày nguyện vọng muốn vào Trường Thuộc địa (École Coloniale). Đơn được gửi từ Mácxây, có đoạn viết: “Tôi vinh hạnh, xin một đặc ân với lòng nhân từ cao cả của ông được thu nhận vào học Trường Thuộc địa như một học sinh nội trú. Hiện tại, tôi là nhân viên của Hãng Sácgiơ Rêuyni (Chargeurs Réunis) Amian Latusơ Tơrêvin”[4].
Vin cớ vào nội dung và ngôn từ của đơn, một số người mang danh “học giả” đã có sự xuyên tạc về mục đích tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Có thể kể ra ở đây: đó là một số kẻ từng phục vụ dưới chế độ Mỹ-nguỵ ở Sài Gòn, sau đó rời bỏ Tổ quốc, ra nước ngoài sinh sống, có sự nhìn nhận lệch lạc và cố tình xuyên tạc sự kiện lá đơn Nguyễn Tất Thành xin học trường Thuộc địa, để từ đó vin cớ xuyên tạc khát vọng và động cơ cứu nước, giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, cũng như giá trị, ý nghĩa lịch sử của việc Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc- con đường cách mạng vô sản.
“Điển hình” trong số đó và xuất hiện từ khá sớm, có Nguyễn Thế Anh, nguyên Khoa trưởng Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn thời Mỹ - nguỵ (sau 1975 sang sinh sống ở Pháp) và Vũ Ngự Chiêu (nguyên là sĩ quan nguỵ, sinh sống ở Canađa). Năm 1983, Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã công bố toàn văn lá đơn của Nguyễn Tất Thành trên Tạp chí Đường mới, số 3-1983, với dụng ý xuyên tạc trắng trợn, khi cố tình bóp méo sự thật lịch sử, cho rằng: Nguyễn Tất Thành lúc đầu có ý định xin vào học Trường Thuộc địa để sau ra làm việc cho Pháp, nhưng vì không được Tổng thống Pháp và Bộ trưởng thuộc địa Pháp chấp nhận đơn, nên không được vào học, và từ đó mới phải đi theo con đường cách mạng (!). Tiếp đó, họ lại cho ra cuốn sách: Hãy tìm một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành, in bằng 3 thứ tiếng (Việt – Anh – Pháp) và phát hành khá rộng tại nhiều nước ở Âu - Mỹ nơi có đông người Việt cư trú[5]. Hay như, gần đây, “nhà văn, nhà báo” Võ Thị Hảo đã cố suy diễn, xuyên tạc sự thật lịch sử khi cho rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản", theo tôi đó là sự chủ quan, tự cho là như thế… Có người có thể đặt câu hỏi giá như ông Hồ Chí Minh không đi tìm đường cứu nước, cứ làm một ông giáo hay nghề gì đó hay ho, thì Việt Nam bây giờ có thể đã có một khả năng lớn trở nên giàu mạnh, văn minh ngang ngửa Hàn Quốc, Singapore...chứ không phải đứng hàng gần đội sổ thế giới thế này, như được xếp riêng về kinh tế là quốc gia thuộc nhóm trung bình thấp”[6], từ đó Võ Thị Hảo cố kích tạo ra sự nghi ngờ, khi tự “huyễn tưởng” bằng một “nghi vấn”: “Hồ Chí Minh là một nhân vật luôn được công chúng đặt ra rất nhiều câu hỏi. Thực ra bản thân ông không bí hiểm đến thế nhưng chính sự thần thánh hóa ông ta của Đảng Cộng sản và chính quyền đã khiến người ta phải nghi vấn, đưa ra những thực tế để chứng minh có sự thực hai dối trá lịch sử, chính trị hoặc những dấu hỏi, tồn nghi”[7]. Thậm chí có “nhà văn” còn khuyên nhủ chúng ta: “Các thế hệ đi sau phải có đủ bản lĩnh để nhận ra những mặt sai lầm trong sự chọn lựa ấy của Hồ Chí Minh một cách khách quan, nghiêm chỉnh”[8], v.v và v.v.
Tuy nhiên, không khó để nhận diện những sự xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử, nguỵ tạo ác ý đó, gây tâm lý hồ nghi, dẫn đến không tin tưởng; có thể “lập lờ đánh lận trắng - đen” với những ai thiếu hiểu biết về lịch sử, về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc có dụng ý đen tối, mưu đồ xấu xa khi nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh, chứ không thể đánh lừa được lương tri, phẩm giá và bản lĩnh của các nhà khoa học chân chính và của bạn bè quốc tế, của nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam. Và như người phương Đông chúng ta từng nói “Vải thưa không che được mắt thánh”, vì những sự xuyên tạc đó đã bị phơi bày dưới ánh sáng của sự thật lịch sử - mà lịch sử thì luôn trung thực, khách quan, nằm ngoài ý muốn chủ quan.
Hơn nữa, nếu với cái tâm trong sáng, trung thực với chính bản thân mình và trước lịch sử, hiểu rõ giá trị văn hoá, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, thì bất cứ người Việt Nam yêu nước nào và nhân loại tiến bộ cũng đều thấy được và vô cùng cảm phục về tinh thần yêu nước thiết tha, ý chí mãnh liệt của Hồ Chí Minh trên hành trình thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc và nhân loại. Vì thế, trước các luận điệu xuyên tạc này, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp phản bác các luận điệu trên và khẳng định mục đích ra đi tìm đường cứu nước cũng như công lao vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã khởi xướng, lãnh đạo kiến tạo.
Đã có học giả nước ngoài, ngay sau khi Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu công bố những “văn phẩm” của mình, đã nghiên cứu và phản bác lại sự xuyên tạc trắng trợn và vô căn cứ nêu trên. Đáng chú ý trong số đó có Daniel Hémery – một nhà sử học Pháp chuyên nghiên cứu và giảng dạy lịch sử cận-hiện đại Việt Nam tại trường Đại học Pari VII, cũng đã có một số công trình viết về lịch sử Việt Nam được xuất bản, như: Các nhà cách mạng Việt Nam và chính quyền thực dân ở Đông Dương (Revolutionnaires Vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine), Francois Maspéro, Pari, 1957); Từ chủ nghĩa yêu nước tới chủ nghĩa Mác; Sự nhập cư của người Việt vào nước Pháp từ năm 1926 đến năm 1930 (Tạp chí Phong trào xã hội, số 90, các tháng 1-2-3 năm 1975). Trong một bài viết nhan đề “Về lá đơn xin vào học Trường thuộc địa năm 1911 của người thanh niên Hồ Chí Minh”, đăng trong Kỷ yếu của Hội thảo Việt Nam – Á châu lần thứ nhất, Nxb Hácmatan (L’Harmattan), Pari, 1983, Daniel Hémery đã nghiên cứu và lập tức bóc trần sự xuyên tạc nêu trên. Sau khi đưa ra nhiều tư liệu khai thác trong các hồ sơ lưu trữ của Pháp, trong đó có cả những hồ sơ của Bộ Thuộc địa Pháp trước đây, Daniel Hémery đã đi tới một kết luận khoa học: Tuyệt nhiên không thể căn cứ vào lá đơn xin học năm 1911 để gán ghép Nguyễn Tất Thành sau khi học xong sẽ trở thành người cộng tác với chính quyền thực dân[9]. Trong một công trình nghiên cứu khác, có tên gọi: Hồ Chí Minh – từ Đông Dương đến Việt Nam (Ho Chi Minh – De l’Indochine au Vietnam, Tủ sách: Dé couverte, Nxb Galimard, Paris, 1990), Daniel Hémery đã giới thiệu với bạn đọc về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh kể từ năm 1911- từ lúc ra đi tìm đường cứu nước, đến khi ra đi, để lại Di chúc cho đồng bào cả nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Tuy còn có nhiều điều phải trao đổi với tác giả cuốn sách về vấn đề tư liệu cũng như về một số nhận định, nhưng nhìn chung, qua công trình của mình, Daniel Hémery nêu bật lên những nét chính yếu trong cuộc đời hoạt động và quan trọng hơn đã cố gắng trình bày quá trình chuyển biến tư tưởng của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến khi bắt gặp chân lý thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, thông qua những sự kiện tiêu biểu được đặt trong bối cảnh chính trị-xã hội của dân tộc Việt Nam và của thế giới. Một điếm nhấn trong công trình là tác giả đã nghiên cứu về con người Hồ Chí Minh – một con người vĩ đại đã luôn gắn con người với đất nước, với đồng bào, đồng chí, với thời đại.
Còn Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge, người Mỹ hiện sống tại Anh, (tác giả Cuốn "Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết đến" (Hochiminh: The missing years), Đại học LSE, London, chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm lưu trữ quốc gia Nga và tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp), đã tập trung nghiên cứu những năm tháng hoạt động của Hồ Chí Minh thời kì trước năm 1945, dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của Người trong thời kì này. Trong một trả lời phỏng vấn của Đài BBC Việt Ngữ, trước câu hỏi của phóng viên BBC: "Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nước ngoài không phải với mục đích tìm đường cứu nước?" Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge đã dứt khoát trả lời: “Không, ý tôi không phải là như thế. Dựa trên tài liệu của Pháp nói về các anh chị trong gia đình ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan Bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nước chống thực dân từ sớm. Tôi tin là ông Hồ Chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc học, nên ông ra nước ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp”[10].
Tiến sĩ E. Côbêlép - chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề lịch sử và chính trị của các nước Đông dương, hiện làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga, trong tác phẩm: Đồng chí Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị – Hành chính 2010), có lý giải về động cơ ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, khiến ta thấu hiểu hơn về điều này: “Ngay từ những ngày đầu học ở Trường Quốc học Huế, Thành đã hiểu rằng, nhiệm vụ duy nhất mà chính quyền thực dân đặt ra cho trường là đào tạo những người với một nền học vấn không phải để phục vụ cho nhân dân, cho Tổ quốc mà là để làm tay sai đắc lực cho bọn thực dân, và nhờ những tên tay sai đó mà bọn thực dân dễ bề thống trị. Trật tự tôi tớ ngự trị trong Trường Quốc học xa lạ với lòng khao khát tự do của Thành đã đè nén tâm hồn anh… Lòng khao khát hiểu biết đã thôi thúc Thành lên đường… Đối với người ngoài thì việc lựa chọn đó của Thành có thể là điều rất kỳ lại. Bởi vì, Thành xuất thân từ một gia đình trí thức, là người có học vấn cao. Nhưng bước ngoặt bất ngờ này là một kết quả rất lôgic, phù hợp với sự phát triển thế giới nội tâm của người thanh niên yêu nước đã đặt cho mình mục đích tìm thấy “thanh kiếm mầu nhiệm” để cứu nước, cứu dân”[11].
Kết luận đó là đúng đắn, bởi lẽ, Trường Thuộc địa nơi mà Nguyễn Tất Thành có đơn gửi Tổng thống và Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp xin vào học, được thành lập năm 1885 tại Pari, với mục đích đào tạo những công chức Pháp để gửi sang các nước thuộc địa làm việc. Học viên vào học chủ yếu là người Pháp, rất ít người của các nước thuộc địa, trừ một số do chính quyền ở thuộc địa gửi sang. Học viên của Trường thuộc địa không nhất định trở thành quan chức. Từ năm 1896 trở đi, đồng thời với đào tạo một số học viên trở thành nhà cai trị thuộc địa tương lai, nhà trường còn có lớp dạy những người bản xứ làm các nghề chuyên môn như: điện báo, kế toán, xưởng trưởng,… Vì thế, chắc hẳn đích chính của Nguyễn Tất Thành xin vào học là nhằm tranh thủ nắm lấy những kỹ thuật và văn minh nhân loại, văn minh phương Tây mà nước Pháp lúc đó được mệnh danh là “trung tâm” của châu Âu, là nơi diễn ra Đại cách mạng Pháp, với tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Điều này đã được nhà khoa học Nga - E. Côbêlép lý giải có căn cứ khi phân tích về mục đích ra nước ngoài của Hồ Chí Minh: “… chỉ có châu Âu, nơi diễn ra biết bao cuộc cách mạng, trong đó có Đại cách mạng Pháp 1789 và Công xã Pari, nơi lần đầu tiên đã vang lên những chữ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”, nơi mà khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ so với các lục địa khác - chỉ nơi đó mới giúp anh tiếp thu được những tri thức cần thiết và tìm ra được con đường giải phóng Tổ quốc[12].
Điều dễ nhận thấy là, trước khi sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã có khoảng mười năm đèn sách, với một vốn văn hoá Hán học, Quốc học khá phong phú tích luỹ được. Nhờ đó và với một sự mẫn cảm, tinh tường, nên dẫu có xin vào học một ngôi trường nào đó như trường Thuộc địa, thì với Nguyễn Tất Thành, cũng chỉ là nhằm về sau đem những kiến thức thâu thái được trở về nước giúp đồng bào mình trong công cuộc giải phóng. Điều này cũng phù hợp và nhất quán với Hồ Chí Minh, khi còn tuổi trẻ ở trong nước. Hơn nữa, trong ẩn ý sâu xa của lá đơn xin học, bằng lời lẽ lịch sự, người đọc chúng ta vẫn tinh ý nhận ra mục đích, nhất là ý Người muốn “trở thành có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức”[13]. Đây là cái cần thiết hơn hết trong mục đích xin vào học của Hồ Chí Minh. Và về điều này chúng ta cũng thấy, từ rất sớm, Người đã bộc bạch với một người bạn thân về mục đích đi ra nước ngoài: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[14]. Ngay từ năm 1923, khi đang trên quê hương của Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã cho chúng ta biết (qua cuộc gặp gỡ với Nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđenxtam) động cơ ra nước ngoài của Người: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái (…) và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy (…) Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”[15]. Một lần khác, trả lời Nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông, Người cho biết thêm: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[16].
Xâu chuỗi hàng loạt sự kiện lịch sử những năm cuối thập niên thứ nhất và đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động cách mạng trên đất Pháp và ở Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga và V.I.Lênin vĩ đại, chúng ta thấy rõ mục đích, khát vọng giải bài toán độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc ngày càng mãnh liệt. Đó là sự kiện lịch sử Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị hoà bình Vécxây năm 1919 Bản yêu sách của nhân dân An Nam, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức. Mặc dù Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng đã gây tiếng vang quốc tế lớn và khiến Người nhìn nhận thấu tỏ hơn dã tâm của chủ nghĩa thực dân và những “trò bịp lớn” của chúng về quyền dân tộc tự quyết. Trước khi bỏ phiếu tán thành Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội Tua (12-1920), trong trả lời phóng vấn của Phóng viên báo Yi Chê Pao (xuất bản ở Thiên Tân, Trung Quốc, ngày 20-9-1919 (In trong sách Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc ở Pari, 1993, tr.69-70), với câu hỏi của phóng viên: “Ông đến Pháp với mục đích gì?”, trong buổi Nguyễn Ái Quốc trao đổi với Phan Văn Trường, cùng một đại biểu của Triều Tiên và một phóng viên Mỹ tại nhà phóng viên của báo này, Người đã trả lời: “Để đòi những quyền tự do mà chúng tôi phải được hưởng”. Vậy “Chương trình của ông là gì?”, Nguyễn đáp: “Luôn luôn tiến về phía trước, tuỳ theo sức mạnh của chúng tôi”. Nêu rõ những điều đó, Nguyễn Ái Quốc còn cho biết sự nhìn nhận của Người đối với tâm địa thực dân: “Bằng cách cản trở văn minh và tiến bộ của dân tộc An Nam, người Pháp vĩnh viễn đặt dân tộc này ra ngoài lề của nền văn minh thế giới và họ buộc phải đáp ứng vô cùng tận những đòi hỏi không ngừng thay đổi của chúng. Trong những năm gần đây, điều kiện sống ở Đông Dương trở nên thảm hại chưa từng thấy”[17].
Tiếp đó, năm 1924, trả lời phỏng vấn của Phóng viên Giôvani Giéc manéttô (đăng trên báo L’ Unità của Đảng Cộng sản Italia) Nguyễn Ái Quốc cho chúng ta thấy rõ động cơ, mục đích ra nước ngoài, sang châu Âu của mình. Với câu hỏi “Tại sao anh lại sang châu Âu?”, Nguyễn Ái Quốc trả lời: “Trước đây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống đối. Ở An Nam, có những người lính lê dương do Poăngcarê gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương này đọc đủ mọi thứ. Họ là những người chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các báo Pháp. Vì thế tôi nảy ra ý muốn xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đã tới Pari. Khi Trường đại học Phương Đông ở Mátxcơva mở, tôi bèn theo học”[18]. Với câu hỏi: “Khi học xong, anh dự định làm gì?” Nguyễn lập tức khẳng định: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc tôi để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi có nhiều việc phải làm lắm… Chúng tôi đã đau khổ nhiều và chúng tôi còn phải đau khổ nữa. Những người “khai hoá” các nước chúng tôi không để chúng tôi tự do. Nhưng chúng tôi tiếp tục đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười đã vạch ra, chúng tôi sẽ vận dụng vào thực tiễn những bài học đã học được”[19]. Người còn nhấn mạnh “Chúng tôi hiểu rõ là chúng tôi có trách nhiệm rất nặng nề và tương lai của các dân tộc thuộc địa tuỳ thuộc vào sự tuyên truyền và tinh thần hy sinh của chúng tôi”[20]. Điều thật kỳ lạ, nhưng đã trở thành sự thật lịch sử, đó là, chính Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp A.Xarô (Alberrt Sarraut), Toàn quyền Đông Dương Pátxkiê (Pierre Passquier) cũng đã sớm nhận ra mục tiêu đấu tranh, ý chí, bản lĩnh, sức mạnh và khát vọng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh. Ngay “cáo già thực dân” - Chánh Mật thám Pháp Ácnu (Arnoux), từ buổi tiếp xúc đầu tiên với Người, đã linh cảm Nguyễn Ái Quốc sẽ là người thi hành “bản án chế độ thực dân Pháp”, rằng: “Người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt cây thập tự cáo chung nền thống trị”[21] của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Như vậy, rõ ràng là, cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại) ngày 5/6/1911, với ý chí, nghị lực và khát vọng phi thường đã giúp Người vượt qua bao thử thách, khó khăn và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường giải phóng và phát triển của cách mạng Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mở ra một tương lai xán lạn, đi tới hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Và sự hy sinh, dấn thân cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, một cuộc đời trọn vẹn và dâng hiến đã trở thành một cội nguồn đặc biệt quan trọng dẫn tới những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam. Với tấm lòng yêu nước thiết tha, thiên tài trí tuệ và tầm nhìn xa rộng, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo dân tộc ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vĩ đại, đã đưa nước ta từ nước thuộc địa nửa phong kiến, không có tên trên bản đồ thế giới, là “vong quốc nô” thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, với chính thể dân chủ cộng hòa; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đó là mốc son chói lọi, rực rỡ trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, khởi đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Và từ đó, cả dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, tiếp tục giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vững vàng tiến bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Như vậy, cho đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, đã có rất nhiều tác phẩm, sách, báo, công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và người nước ngoài viết về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, qua đó nêu bật giá trị dân tộc và thời đại của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng các cứ liệu lịch sử, từ bối cảnh, yêu cầu của cách mạng Việt Nam và sự hình thành tư tưởng, chí hướng cứu nước của Hồ Chí Minh, cũng như hành trình bôn ba tìm đường cứu nước của Người, đã phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch về động cơ tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Chính vì thế, dù các thế lực đó mang danh “những người dân chủ”, bất mãn chế độ, có cố tình xuyên tạc, bóp méo, bôi đen… nhằm “hạ bệ thần tượng”, “giải thiêng lãnh tụ”,… thì đều chung hậu quả về sự thất bại tất yếu của nó, với lý do: Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại, như Nghị quyết của Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESSCO) về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tôn vinh. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, sống mãi trong trái tim nhân loại.
Vì thế, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh luôn là một mệnh lệnh từ trái tim và khối óc của mỗi người Việt Nam yêu nước, với tất cả niềm tôn kính mà chúng ta hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đồng thời đây cũng luôn là trọng tâm của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ cả về chủ thể, nội dung và phương thức đấu tranh phản bác. Trong đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phải tiếp tục sưu tầm, bổ sung tư liệu về Hồ Chí Minh (cả trong nước và ở nước ngoài); đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu hệ thống, toàn diện, sâu sắc về di sản Hồ Chí Minh, xứng tầm là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, qua đó, lấp đầy những khoảng trống trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh gắn liền với cảnh giác đấu tranh trực diện với các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh. Đồng thời, quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ chuyên gia Hồ Chí Minh học có bản lĩnh và dũng khí, giàu năng lực đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết giá trị dân tộc và thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh được nhìn nhận trong bối cảnh, với nhận thức mới, tầm nhìn mới và nguồn tư liệu mới, tiếp tục khẳng định những giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là những căn cứ khoa học lý luận vững chắc để đấu tranh phản bác có hiệu quả trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về di sản Hồ Chí Minh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị của đất nước./.
[1] Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, sáng ngày 9-9-1969.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 30
[3] GS. Trần Văn Giàu, Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr.21.
[4] Đơn ngày 15/9/1911 của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống Pháp. Bản chụp bút tích lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
[5] Xem thêm Đinh Xuân Lâm: “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin học của Nguyễn Tất Thành năm 1911”. In trong Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H2005, tr.271-276.
[6] “Việt Nam: Tuyên truyền về Hồ Chí Minh, kết quả thế nào?”. BBC New/Tiếng Việt. Ngày 19 / 5 / 2020.
[7] “Việt Nam: Tuyên truyền về Hồ Chí Minh, kết quả thế nào?”. BBC New/Tiếng Việt. Ngày 19 /5/ 2020.
[8] Thư Nhà (Paris) tháng 9-2004 (http://www.viet-studies.net/LuPhuong/LuPhuong_NoiChuyenVeHCM.htm
[9] Xem thêm Đinh Xuân Lâm: Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H2005, tr.271-276
[10] http://tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn
[11] E.Cô bê lép: Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H,2010, tr. 43-47
[12] E.Cô bê lép: Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H,2010, tr. 48.
[13] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Nxb Lý luận chính trị, H,2006, tr.46
[14] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, H, 1075, tr.13
[15] Bài viết của Nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđenxtam: “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản – Nguyễn Ái Quốc”, Báo Ogoniok (Liên Xô), số 30 ngày 23-12-1923. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, tập 1, tr.460-461.
[16] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H,2016, tập 1, tr.30.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, tập 1, tr.457-458.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, tập 1, tr.465.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, tập 1, tr.465.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, tập 1, tr.465.
[21] Dẫn theo Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb Thanh niên, H,1976.
Đỗ Xuân Tuất