Nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, việc nghiên cứu, học hỏi để nâng cao năng lực tư duy lý luận là vô cùng cần thiết. Trong đó, vấn đề thể chế “tam quyền phân lập” là một trong những nội dung thường bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc, cổ xuý ở Việt Nam. Bài viết này sẽ làm rõ bản chất của “tam quyền phân lập”, vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước trong mối liên hệ với phòng, chống tham nhũng. Từ đó, chỉ ra những lập luận sai trái, phiến diện của thế lực chống phá cách mạng Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Quyền lực nhà nước là một hiện tượng chính trị - xã hội đặc biệt và quan trọng. Nói quyền lực nhà nước là một hiện tượng đặc biệt vì nó chỉ tồn tại trong các xã hội có giai cấp và có nhà nước. Song song đó, đây còn là một hiện tượng quan trọng bởi vì chủ thể nào nắm giữ quyền lực nhà nước sẽ có thể định đoạt, chi phối những vấn đề cơ bản, thiết thân nhất liên quan đến xu thế vận động, đường lối phát triển của xã hội đương thời, các nguyên tắc hoạt động của cá nhân, tổ chức trong đời sống. Chính vì vậy, các giai cấp hay tầng lớp xã hội luôn cố gắng dùng mọi phương thức để nắm giữ, tác động, ảnh hưởng đến quyền lực nhà nước nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp của mình trong khuôn khổ có tính đến lợi ích của các giai tầng xã hội khác. Do đó, quyền lực nhà nước chính là vấn đề trung tâm của hầu hết các nền chính trị.
2. Sự cần thiết phải giới hạn/kiểm soát quyền lực nhà nước
Cùng với sự xuất hiện của nhà nước và quyền lực nhà nước, sự giới hạn quyền lực nhà nước hay kiểm soát quyền lực nhà nước cũng nảy sinh như một tất yếu của xã hội. Hạn chế quyền lực của giới cầm quyền được xem là nhu cầu tự nhiên của con người được biểu hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, bằng các quy phạm xã hội như đạo đức, tín điều tôn giáo hay phong tục, tập quán, dù ít hay nhiều cũng đã góp phần tiết chế chính quyền. Ở Việt Nam, từ thời kỳ phong kiến, cũng đã tồn tại chế độ tự trị làng xã nhằm hạn chế quyền lực của nhà vua. Vì vậy, bao đời nay vẫn còn tồn tại câu tục ngữ: “Phép vua thua lệ làng” trong dân gian. Vấn đề đặt ra là: Tại sao con người lại luôn muốn hạn chế hay kiểm soát quyền lực nhà nước? Để trả lời cho câu hỏi này cần phải làm rõ hai vấn đề, đó là (i) loài người có cần đến nhà nước hay không và (ii) đặc tính của những người nắm giữ quyền lực nhà nước như thế nào.
Thứ nhất, sự tồn vong của con người chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, xã hội loài người đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, kéo theo đó là sự xuất hiện của các giai cấp đối lập nhau, mâu thuẫn giai cấp nảy sinh và dần phát triển đến mức “không thể điều hoà được”[1]. Sự tồn tại xã hội thay đổi đòi hỏi phải có một cách thức tổ chức quyền lực mới thay thế. Tổ chức đó chính là nhà nước – một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này với giai cấp khác[2]. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các nhà nước sơ khai còn chịu sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều nhân tố khác như vị trí địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn cung cấp thức ăn, giao thông… khiến cho có những nơi sớm trở thành trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá hơn những vùng đất khác[3], đặc biệt là ở các quốc gia phương Đông cổ đại.
Thứ hai, mặc dù con người rất cần đến nhà nước để tồn tại, phát triển nhưng luôn tìm mọi cách để giới hạn và kiểm soát được quyền lực nhà nước. Bởi vì suy cho cùng, nhà nước vẫn do con người cai trị, điều khiển và vận hành. Bản thân con người, luôn luôn tồn tại song hành giữa các đức tính tốt như chăm chỉ, siêng năng, sáng tạo, ham học hỏi và những thói xấu như sự tuỳ tiện, lười nhác, tham lam, ỷ lại, dựa dẫm và đặc biệt là bản tính đam mê quyền lực[4]. Khi nắm giữ quyền lực trong tay, con người có thể lợi dụng nó để thâu tóm về cho mình và những người thân cận những lợi ích khác như tài sản, danh tiếng, kể cả sự sai khiến kẻ khác. Bên cạnh đó, bản tính tự nhiên của con người luôn muốn hơn người khác, chỉ đạo kẻ khác. Và quyền lực nhà nước là thứ có thể dễ dàng mang lại cho con người những điều này. Ngoài ra, bản tính hay tuỳ tiện cũng được xem là một trong những nguyên nhân cần hạn chế quyền lực. Bởi lẽ, con người vốn dĩ hành động theo bản năng, đôi khi thiếu sự tính toán đến các yếu tố khách quan tác động đến hành vi của mình. Do vậy, để tránh sự tuỳ tiện trong sử dụng quyền lực nhà nước dẫn đến những tiềm ẩn rủi ro cho toàn xã hội, không còn cách nào tốt hơn là phải tìm cách hạn chế quyền lực.
Như vậy, sự giới hạn quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu khách quan bắt nguồn từ đặc tính vốn có của những con người điều khiển nhà nước. Nói như Acton trong Thư gửi Giám mục Mandel Creighton năm 1887 thì “quyền lực có xu hướng dẫn tới đồi bại, quyền lực tuyệt đối thì có xu hướng đồi bại tuyệt đối”[5]. Chính vì thế, việc tìm tòi, phát hiện những phương thức để hạn chế quyền lực nhà nước đã được đặt ra từ rất xa xưa. Và một trong những phương thức ấy chính là sự sáng tạo ra mô hình thể chế “tam quyền phân lập”.
3. Giới hạn/kiểm soát quyền lực nhà nước bằng thể chế “tam quyền phân lập”
Việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất đa dạng, phong phú giữa các quốc gia trên thế giới mà một trong số đó là thể chế “tam quyền phân lập”. Hiểu một cách khái quát, trong thể chế “tam quyền phân lập” có sự hiện diện của các nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và các quyền này độc lập với nhau về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động. Đồng thời, trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước, các nhánh quyền lực này được đảm bảo cân bằng thông qua cơ chế kiềm chế, kiểm soát, đối trọng lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu là ngăn ngừa sự lạm quyền, chuyên quyền, bảo vệ sự tự do cho công dân cũng như đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thống nhất và luôn trong trạng thái cân bằng[6].
Ngược dòng lịch sử cho thấy, những mầm mống sơ khai nhất của tư tưởng phân chia quyền lực được thể hiện qua việc cải cách bộ máy nhà nước ở Hy Lạp và La Mã từ thời cổ đại. Vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên, chính quyền ở Athens đã tiến hành một cuộc cải cách dân chủ nhằm lật đổ Hội đồng trưởng lão – cơ quan nắm giữ nhiều quyền hạn to lớn trong xã hội bấy giờ để trao quyền cho các cơ quan khác nhau trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cụ thể, Hội nghị nhân dân có quyền lập pháp; quyền hành pháp thuộc về Hội đồng nhân dân gồm 500 viên chức hành chính được tuyển chọn theo hình thức bầu cử hoặc bốc thăm; quyền tư pháp được giao cho Tòa án gồm 600 người có xuất thân từ các bộ lạc giữ vị trí thẩm phán và bồi thẩm.
Ở La Mã, từ thế kỷ VI đến thế kỷ I trước Công nguyên, chế độ bạo quyền diễn ra trong suốt thời gian dài đã đặt ra một yêu cầu là phải xây dựng nền cộng hòa và sử dụng cách thức phân chia quyền lực để ngăn ngừa tình trạng lạm quyền như trước đây. Chính quyền La Mã tổ chức ba Hội nghị với các chức năng và quyền hạn khác nhau, bao gồm: (i) Hội nghị bào tộc (quy-ri) có nhiệm vụ giao quyền lực cho các cơ quan tư pháp tối cao và giải quyết những vấn đề thuộc luật lệ gia đình; (ii) Hội nghị Xăng-tu-ri có quyền hành trong quyết định chiến tranh và hòa bình, bầu các chức quan cao nhất của nhà nước; (iii) Hội nghị nhân dân các bộ lạc theo khu vực có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề về luật pháp.[7]
Từ những tư tưởng sơ khai đó, thể chế “tam quyền phân lập” được tiếp tục phát triển dần qua các giai đoạn lịch sử. Đến khi cuộc cách mạng tư sản nổ ra nhằm lật đổ chế độ phong kiến, đòi lại quyền tự do của con người trước sự chuyên quyền của nhà vua thì tư tưởng phân chia quyền lực – nguồn cội của sự hình thành thể chế “tam quyền phân lập” mới thực sự phục hồi và phát triển thành đỉnh cao.
Học thuyết về phân chia quyền lực của John Locke cho rằng, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước khi ông phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và liên minh, liên bang. Theo Locke, quyền lập pháp cần phải thuộc về nghị viện với nhiệm vụ là thông qua các đạo luật nhưng không tổ chức thực hiện chúng. Việc thi hành pháp luật hay quyền hành pháp sẽ thuộc về nhà vua. Điểm nổi bật ở đây là hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và không được hưởng bất kỳ đặc quyền nào đối với nghị viện để phòng ngừa trường hợp nhà vua thâu tóm quyền lực về mình. Bên cạnh đó, nhà vua cũng là người thực hiện quyền liên minh (liên bang), nghĩa là giải quyết các vấn đề liên quan đến chiến tranh, hòa bình và hoạt động đối ngoại của nhà nước[8].
Tiếp nối cơ sở lý luận của Locke về tư tưởng phân quyền, Montesquieu đã phát triển nó trở thành một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh với nhiều điểm tiến bộ. Trong xã hội đương thời, Montesquieu là người phê phán kịch liệt chế độ chuyên chế Pháp, ông cho rằng chế độ chuyên chế không thể dung hòa được với sự tự do, ông còn khẳng định: “Những người dã man ở xứ Louisiane muốn ăn quả thì chặt cây từ gốc cho cây đổ xuống để hái quả. Chính thể chuyên chế là như thế đó!”[9]. Do đó muốn có được sự tự do phải thủ tiêu chuyên chế.
Bên cạnh đó, khi bàn đến việc bảo vệ tự do cho người dân, Montesquieu chủ kiến quan hệ giữa ba nhánh quyền lực phải dựa trên cơ chế “quyền hành ngăn chặn quyền hành” hay còn được biết đến với cách gọi “kiềm chế, đối trọng”. Bởi lẽ, theo ông khuynh hướng chung của những người có quyền là lạm dụng quyền đó. Đây không phải là đặc điểm riêng biệt chỉ có trong chính thể chuyên chế mà nó là mẫu hình chung cho mọi chính thể, dù là cộng hòa cũng không thể thoát khỏi thông lệ đó.
Như vậy, thực chất thể chế “tam quyền phân lập” bắt nguồn từ học thuyết phân chia quyền lực suy cho cùng chỉ là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan và của những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Đồng thời, đây còn là biện pháp để hạn chế quyền lực nhà nước, để họ - những người nắm giữ quyền lực chỉ được sử dụng thứ quyền lực được giao trong phạm vi hữu hạn nhằm ngăn chặn những tiêu cực như sự lạm quyền hay tha hoá quyền lực.
4. Tham nhũng và bản chất của tham nhũng
Đến nay, dù ở cấp độ quốc tế hay phạm vi quốc gia vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm mang tính chuẩn mực về tham nhũng được chấp nhận và áp dụng rộng rãi. Nguyên nhân của tình trạng này là do những nỗ lực xây dựng một định nghĩa chung về tham nhũng luôn vấp phải các khó khăn liên quan đến sự khác biệt về nhận thức, gắn liền với điều kiện lịch sử, văn hoá, kinh tế, xã hội, chính trị ở từng quốc gia, dân tộc và khu vực địa lý, liên quan đến cả chủ thể ở khu vực công lẫn tư[10].
Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những cách hiểu về tham nhũng do một số tổ chức quốc tế xây dựng. Chẳng hạn, Ngân hàng thế giới cho rằng tham nhũng là “hành vi lạm dụng quyền lực công để thu lợi ích riêng”[11]. Tổ chức Minh bạch quốc tế có đề xuất cách hiểu về tham nhũng như sau: “hành động lạm dụng quyền lực được giao để làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân hoặc cho những người thân cận của một bộ phận nhân viên công quyền, có thể là các nhà chính trị hoặc viên chức”[12]
Ở Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Đồng thời, Luật còn phân định khá cụ thể đâu là hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện và đâu là hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện. Như vậy, trong lần sửa đổi mới nhất các quy định về phòng, chống tham nhũng, các nhà lập pháp đã có những lưu tâm nhất định đối với vấn đề tham nhũng trong khu vực tư. Điều này là hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh cả hệ thống chính trị đang quyết liệt trong cuộc đấu tranh với các hành vi tham nhũng.
Từ khái niệm trên cho thấy, tham nhũng mang bản chất là những hành vi phi pháp, vi phạm đạo đức và các chuẩn mực xã hội. Qua đó, làm xói mòn nền tảng xã hội, ngăn cản quá trình tiến bộ và dân chủ xã hội. Điểm khác biệt cơ bản nhất của tham nhũng so với các hành vi vi phạm pháp luật khác chính là: (i) mục đích thu lợi ích cá nhân và (ii) chủ thể của hành vi tham nhũng là loại chủ thể đặc biệt, thông thường là người được giao một thẩm quyền nhất định hay có một vị thế nhất định trong xã hội.
Bên cạnh đó, tham nhũng còn gắn liền với sự tha hoá quyền lực, lạm dụng quyền lực công để vun vén lợi ích riêng. Đây được xem là một hiện tượng có tính chất quy luật dựa trên phương diện tâm lý học hành vi của con người[13]. Như đã đề cập ở phần trước, con người vốn dĩ có bản tính đam mê quyền lực, tính tuỳ tiện trong khả năng thực hiện hành vi. Vì lẽ đó, khi được giao giữ một thẩm quyền với vị trí nhất định, bằng cách này hay cách khác, họ có thể lợi dụng những thứ đó để làm lợi cho bản thân, cho nhóm lợi ích của mình, “vinh thân, phì gia”.
Như vậy, có thể nói, tham nhũng là một “căn bệnh” cố hữu của mọi nhà nước, nó xuất hiện từ khi nhà nước ra đời và sẽ cùng tồn tại với nhà nước, bất kể thuộc thể chế chính trị nào. Bởi lẽ, suy cho cùng, tham nhũng gắn liền với quyền lực và sự lạm dụng quyền lực, và chỉ khi nào thứ quyền lực ấy mất đi thì tham nhũng mới có thể bị triệt tiêu vĩnh viễn.
5. Lập luận phản bác quan điểm đòi thực hiện “tam quyền phân lập” để loại bỏ tham nhũng
Trong những năm gần đây, nhất là khi đất nước chuẩn bị diễn ra những sự kiện trọng đại mang tầm quốc gia hoặc quốc tế, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị luôn đẩy mạnh tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn như tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi và lợi dụng các trang mạng xã hội để tuyên truyền cho các quan điểm sai trái, bóp méo, xuyên tạc từ các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước. Trong số những quan điểm, lập luận đó, chúng luôn tìm cách tung hô, cổ vũ, lý tưởng hóa học thuyết phân quyền và thể chế “tam quyền phân lập”, coi đây là “phương thuốc vạn năng” để kiểm soát quyền lực, là “vắc-xin” duy nhất để ngăn ngừa “dịch bệnh” tham nhũng. Tuy nhiên, phải khẳng định ngay rằng, đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, cực đoan, thiển cận và cơ hội chính trị. Học thuyết phân quyền, nguồn cội xây dựng nên thể chế “tam quyền phân lập” từ lâu đã được áp dụng ở một số quốc gia phương Tây, điển hình là Mỹ, Anh, Pháp hay Đức. Song, dù trên cả phương diện lý luận và thực tiễn thể chế này mang lại một số tác động tích cực nhưng không vì thế mà “suy tôn”, cường điệu hoá, “thần thánh hoá” trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xuất phát từ các quan điểm sau đây:
Thứ nhất, “tam quyền phân lập” không phù hợp với thể chế chính trị và mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam
Ở nước ta, Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, quyền lực nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, quyền lực đó phải được thực hiện một cách thống nhất dưới sự giám sát của Nhân dân, tuyệt đối không thể phân chia, chia cắt, phân rã. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân được bảo đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Xuyên suốt lịch sự lập hiến, Việt Nam vẫn luôn trung thành và kiên định với quan điểm đó. Chẳng hạn, Điều thứ 1 Hiến pháp năm 1946 đã trang trọng khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”, Điều 4 Hiến pháp năm 1959 ghi nhận: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đến Hiến pháp hiện hành năm 2013, chúng ta vẫn hiến định nội dung này tại khoản 2 Điều 2: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều này cho thấy, tư duy lý luận về nguồn gốc của quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã được xuất hiện từ lâu, không phải là sự lựa chọn nhất thời và quan trọng hơn hết chính tư tưởng quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về Nhân dân đã được thực tiễn cách mạng kiểm chứng và Nhân dân đồng tình ủng hộ.
Bên cạnh đó, tuy Việt Nam tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, không phân lập nhưng vẫn có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Bản chất của sự phân công, phối hợp, kiểm soát này chính là phân định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình cơ quan trong bộ máy nhà nước, qua đó tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước thống nhất.
Thứ hai, “tam quyền phân lập” không phải là “chìa khoá” duy nhất để giới hạn/ kiểm soát quyền lực nhà nước
Như đã phân tích, giới hạn hay kiểm soát quyền lực là một nhu cầu tất yếu trong mọi nhà nước có giai cấp. Tuy nhiên, không phải chỉ có một phương thức duy nhất để kiểm soát quyền lực là thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn luôn rêu rao, thuyết giảng. Thực chất, các nhà triết học, lý luận trên thế giới đã tìm tòi, nghiên cứu và khảo nghiệm nhiều phương thức khác nhau để kiểm soát quyền lực:
Một là, hạn chế quyền lực nhà nước thông qua văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao là Hiến pháp. Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật trở thành một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ xã hội và mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo các chuẩn mực pháp luật. Và trong hệ thống văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật, Hiến pháp có giá trị pháp lý tối cao và thường chứa đựng hai nội dung quan trọng: (i) quy định các quyền con người và (ii) quy định chế độ làm việc của bộ máy nhà nước. Chính việc quy định về chế độ làm việc, quy định về chức năng, nhiệm vụ của từng thiết chế cũng như sự kiểm soát lẫn nhau giữa các thiết chế chính là mục đích sâu xa nhất của Hiến pháp. Nói như Thomas Jefferson: “Trong các vấn đề về quyền lực, đừng nói thêm gì nữa về lòng tin vào đức tính tốt của con người, mà phải trói anh ta lại bằng sợi dây xích Hiến pháp để anh ta không còn làm được những điều ác”[14].
Hai là, nhà nước pháp quyền – sự tập trung cao độ về sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Cho đến nay, nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị chung của nhân loại, là con đường hướng đến sự văn minh, dân chủ mà mọi nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị đều mong muốn đạt được. Giá trị cốt lõi nhất của nhà nước pháp quyền chính là nhà nước bị hạn chế quyền lực thông qua phương tiện chính là các văn bản quy phạm pháp luật, mà tiêu biểu là bản hiến pháp[15]. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục kiên định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Ba là, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua sự công khai, minh bạch thông tin hoạt động của chính quyền. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ghi nhận: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ” (khoản 2 Điều 19) và gắn với quyền này chính là yêu cầu về sự công khai và minh bạch thông tin của chính quyền. Công khai được hiểu là mọi hoạt động của cơ quan công quyền phải được công bố, phổ biến, truyền tải cho đại chúng nắm bắt, tiếp cận. Song song với công khai còn đòi hỏi sự minh bạch, tất cả mọi thông tin phải thực sự minh thị, rõ ràng, không gây rắc rối cho công dân. Công khai, minh bạch thông tin là cách để người dân giám sát hoạt động của chính quyền, hoạt động thực thi công vụ của những người trong bộ máy nhà nước. Qua đó có thể phòng ngừa hoặc kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý sai phạm xảy ra trong quá trình sử dụng quyền lực công.
Thứ ba, tham nhũng là một hiện tượng mang tính toàn cầu, không loại trừ bất kỳ một thể chế nhà nước nào
Như đã nhấn mạnh ở phần trước, tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực có thể tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới, không phụ thuộc vào thể chế nhà nước, thể chế chính trị. Suy cho cùng, khi nào còn tồn tại quyền lực và sự tha hoá quyền lực thì tham nhũng vẫn còn “mảnh đất” để tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy, tham nhũng vẫn có thể xảy ra ở cả những quốc gia xây dựng mô hình nhà nước theo thể chế “tam quyền phân lập”. Điển hình nhất là vụ Tammany Hall – cơ quan hành chính của Đảng Dân chủ ở thành phố New York vào thế kỷ XIX. Những chính trị gia trong bộ máy đã lợi dụng quyền lực để thâu tóm thông tin nội bộ và sử dụng chúng để thu về lợi ích vô hạn cho mình. Chẳng hạn, khi biết có một khu đất được quy hoạch để xây dựng công viên, họ sẽ mua đất với giá rẻ mạt và bán lại để thu về món lợi vô cùng lớn[16].
Bên cạnh đó, sự tha hoá quyền lực không chỉ xảy ra ở những công chức bình thường mà còn cả hàng ngũ lãnh đạo cao cấp. Những người bị truy tố về tội tham nhũng có thể gồm cả Tổng thống, Thủ tướng và nhiều quan chức cấp cao. Chẳng hạn, Báo cáo của Ngân hàng thế giới vào năm 1997 nêu rõ: Những tuyên bố về tham nhũng đã làm sụp đổ một số chính phủ ở khắp nơi trên thế giới. Hai cựu tổng thống ở Hàn Quốc đã bị truy tố và kết án. Một tổng thống của Braxin bị kết án về tội tham nhũng. Tháng 10-1996, hơn 250.000 người phản đối việc xử lý một ổ hãm hiếp trẻ em của Chính phủ Bỉ và viện lẽ có sự tham nhũng trong những chỉ định và cưỡng ép toà án xét xử[17].
Thứ tư, để chống tham nhũng cần một hệ thống giải pháp đồng bộ với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
Từ việc nhận diện bản chất của tham nhũng và mối liên hệ giữa tham nhũng với sự kiểm soát quyền lực cho thấy, phòng, chống tham nhũng là một cuộc chiến lâu dài, khốc liệt. Hơn hết, để giải quyết được triệt để vấn đề cần hiểu rõ được nguồn cội của tham nhũng nhằm có những phương hướng giải quyết thấu đáo. Trong đó, cần đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phòng ngừa tham nhũng với các quy định cụ thể liên quan đến quá trình công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền; xây dựng và hoàn thiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác và nhiệm kỳ hoạt động của cán bộ, công chức. Ngoài ra, trong giai đoạn phòng ngừa cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, thực hiện có hiệu quả cải cách nền hành chính. Đồng thời, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở công tác chống tham nhũng.
Song song đó, cần phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện đối với mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ đó, góp phần kiểm soát tốt quyền lực từ bên ngoài nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, thông qua báo chí, truyền thông cũng như mỗi công dân.
6. Kết luận
Từ các lập luận, chứng minh trên một lần nữa phải khẳng định rằng, quan điểm chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực là hoàn toàn lệch lạc, phiến diện mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức tuyên truyền dùng để xuyên tạc định hướng, đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta. Đây thực chất là sự cổ xuý quá mức về thể chế “tam quyền phân lập” trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; đồng thời, còn là cách để các thế lực cơ hội tuyên truyền nhằm tạo nên sự xung đột quyền lực, bất ổn chính trị trong nội bộ quốc gia. Chính vì vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu nghiêm túc, tích cực nền tảng lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, về thể chế “tam quyền phân lập”, về kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian qua nói riêng để có được tư tưởng chính trị vững vàng, không hoang mang, lung lạc trước những luận điệu xuyên tạc, sai lệch đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Đăng Dung (2014), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
- Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Chu Hồng Thanh và Vũ Công Giao (Đồng chủ biên) (2013), Giáo trình Lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
- Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội
- John J. Macionis (2004), Xã hội học, Nxb. Thống kê, Hà Nội
- Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (1995), Giáo trình lịch sử các học thuyết chính trị, Hà Nội
- V.I. Lê-nin (1979), Toàn tập (tập 33), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va
- Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật (Hoàng Thanh Đạm dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
- Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
- Nguyễn Đình Quyền (2018), “Tham nhũng – Khái niệm và bản chất” in trong Viện Nghiên cứu lập pháp – Quỹ Rosa Luxemburg, Pháp luật phòng, chống tham nhũng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội
- The Papers of Thomas Jefferson, Volume 30, ed., Barbarra B. Oberg (Princeton University Press, 2003)
- Transparency International (1996), The TI Sourcebook, edited by Jeremy Pope, Berlin: TI
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, NxbHồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh
- Đào Trí Úc (2015), Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
- Đào Trí Úc và Hoàng Thị Kim Quế (Đồng chủ biên) (2017), Giáo trình đại cương về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
- World Bank (1997), Helping Countries Combat Corruption: The Role of the World Bank, Washington DC
https://history.hanover.edu/courses/excerpts/165acton.html
[1] V.I. Lê-nin (1979), Toàn tập (tập 33), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, tr. 9.
[2] V.I. Lê-nin (1979), Tlđd, tr. 110.
[3] The Papers of Thomas Jefferson, Volume 30, ed., Barbarra B. Oberg (Princeton University Press, 2003), tr. 24-25.
[4] Nguyễn Đăng Dung (2014), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 29.
[6] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 129.
[7] Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 25.
[8] Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (1995), Giáo trình lịch sử các học thuyết chính trị, Hà Nội, tr. 160.
[9] Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật (Hoàng Thanh Đạm dịch), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 74.
[10] Nguyễn Đình Quyền (2018), “Tham nhũng – Khái niệm và bản chất” in trong Viện Nghiên cứu lập pháp – Quỹ Rosa Luxemburg, Pháp luật phòng, chống tham nhũng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 13.
[11] World Bank (1997), Helping Countries Combat Corruption: The Role of the World Bank, Washington DC, tr. 8.
[12] Transparency International (1996), The TI Sourcebook, edited by Jeremy Pope, Berlin: TI, tr. 1.
[13] Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Chu Hồng Thanh và Vũ Công Giao (Đồng chủ biên) (2013), Giáo trình Lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 34.
[14]The Papers of Thomas Jefferson, Volume 30, ed., Barbarra B. Oberg (Princeton University Press, 2003), tr. 541.
[15]Đào Trí Úc (2015), Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 61.
[16] John J. Macionis (2004), Xã hội học, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 586-587.
[17] Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 126.
Nguyễn Quang Thành