Trong sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người từng nhấn mạnh: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Thấm nhuần tư tưởng của Người, để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, khơi dậy mọi nguồn lực sẵn có trong Nhân dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực hoàn thiện nội dung dân chủ nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Trong những năm gần đây, nội dung dân chủ đã được Đảng và Nhà nước cụ thể hóa thành nhiều phương châm khác nhau, gắn liền với quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân tạo sự đồng sức, đồng lòng đưa Việt Nam vượt mọi khó khăn, nhanh chóng ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Để nội dung dân chủ được hoàn thiện hơn nữa, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã bổ sung thêm hai thành tố “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”, đây là điểm bổ sung mới, là điểm nhấn quan trọng trong quá trình thực hiện dân chủ để hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng lấy dân làm gốc luôn là bài học có giá trị cả trong thời bình cũng như thời chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là một nước dân chủ, bảo đảm mọi lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Trung ương đều do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[1]. Học tập tư tưởng của Người, trong Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phương châm ấy là bước cụ thể hóa nội dung dân chủ trong các văn bản pháp lý của Đảng và Nhà nước về quyền và nghĩa vụ của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Khi nội dung dân chủ đã và đang phát huy được tính ưu việt của nó, thì yêu cầu mở rộng nội dung dân chủ được đặt ra cấp thiết. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Bộ Chính trị đã bổ sung hai thành tố “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”để mở rộng và hoàn thiện hơn nữa vấn đề dân chủ mà Nhà nước Việt Nam đang nỗ lực xây dựng.
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh Nhân dân chính là động lực để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành công, đưa công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chính vì vậy, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra quan điểm “dân biết”, “dân bàn”, “dân làm”, “dân kiểm tra”. Tiếp đó, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra cơ chế để thực hiện nhiệm vụ “dân biết”, “dân bàn”, “dân làm”, “dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Năm 2011, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) đã nhấn mạnh “sứ mệnh cách mạng là của dân, do dân và vì dân”. Và, đến Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục khẳng định “Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được thực hiện theo phương châm “dân biết”, “dân bàn”,“dân làm”,“dân kiểm tra” “dân giám sát”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, nhằm phát huy hơn nữa nội dung dân chủ, trong Văn kiện đã bổ sung thêm thành tố “dân thụ hưởng”. Thành tố này tuy đã được đề cập trước đó trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước nhưng đây là lần đầu tiên được đưa chính thức vào Văn kiện Đại hội nhằm hoàn chỉnh phương châm “dân biết”, “dân bàn”, “dân làm”, “dân kiểm tra”, “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” từ đó khẳng định và phát huy hơn nội dung dân chủ, đồng thời khẳng định tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” đã tạo sự đồng thuận cao trong quần chúng Nhân dân nhằm thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. Nhìn một cách tổng thể, các thành tố “dân biết”, “dân bàn”, “ dân làm”, “dân kiểm tra”, “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” là những khái niệm, những phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau để hướng đến mục tiêu phát huy hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân.
Vấn đề “Dân giám sát” xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì là Nhà nước của Nhân dân nên quyền lực phải được kiểm soát. Trước hết, Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân để bảo vệ, thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Nhân dân có quyền giám sát đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Thông qua hình thức dân chủ đại diện, Đại biểu Quốc hội phải đại diện cho ý chí, nguyện vọng cử tri và Nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Không chỉ với Đại biểu Quốc hội, Đai biểu Hội đồng nhân dân cũng phải thực hiện tốt vai trò là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Nhân dân.
Để phát huy quyền giám sát của mình, Nhân dân có quyền nắm bắt mọi thông tin chung của đất nước thông qua “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền tiếp cận thông tin”[2]. Đây là nền tảng bảo đảm cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tạo điều kiện cho Nhân dân lên tiếng, tham gia vào các hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tố cáo, khiếu nại, trưng cầu ý kiến Nhân dân có thể thực hiện quyền giám sát trực tiếp đối với bộ máy Nhà nước. Bằng hình thức này, Nhân dân có thể chuyển tới cơ quan hành chính những thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức. Chính vì vậy, tại Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”[3]. Ngoài ra, Nhân dân có thể thực hiện quyền dân chủ trực tiếp thông qua hình thức trưng cầu dân ý, tức là cho phép người dân thể hiện ý kiến trực tiếp của mình thông qua việc biểu quyết nhằm thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy Nhà nước.
Với “dân thụ hưởng” đồng nghĩa với việc Nhân dân được quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần bởi lẽ Nhân dân là lực lượng làm nên mọi thành quả của xã hội. Chính vì vậy, “dân thụ hưởng” thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến quyền lợi của Nhân dân và Nhân dân xứng đáng được hưởng những thành quả do bản thân mình mang lại. Việc “dân giám sát”,”dân thụ hưởng” đó là quy luật, bởi lẽ Nhân dân là lực lượng tạo ra của cải cho xã hội, do đó họ cần được hưởng thụ những thành quả đó. Nếu làm mà không được hưởng thụ sẽ làm mất đi động lực để làm việc và cống hiến. Động lực chính là lợi ích được hưởng của mỗi con người. Do đó, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngoài lợi ích tổng thể còn đảm bảo lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi con người. Theo đó, người dân không chỉ có quyền được cung cấp thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước mà còn có quyền thụ hưởng những thành quả tốt đẹp do những chính sách đó mang lại.
2. Đấu tranh chống các quan điểm thiếu trung thực, xuyên tạc hai thành tố “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”
Lợi dụng quan điểm “dân giám sát”,”dân thụ hưởng”, các thế lực phản động thực hiện chiêu trò tự ứng cử để chống phá Nhà nước. Trước vòng hiệp thương thứ hai, các thế lực phản động lập các hội nhóm dân chủ rởm trên mạng, ký tên ảo, lên tiếng ủng hộ cho các nhà dân chủ tự xưng ra ứng cử. Khi không đủ điều kiện và bị loại khỏi các vòng hiệp thương các đối tượng này lên mạng rêu rao, xuyên tạc với những luận điệu hết sức sai trái như “Chỉ những người theo phe Đảng Cộng sản mới có điều kiện ứng cử đại biểu quốc hội”, “phải để các ứng cử viên tự do tranh cử dựa trên chữ ký cử tri mà không phải trải qua hiệp thương” hoặc “Đảng Cộng sản cố tình cản trở người ngoài đảng tự ứng cử vào đại biểu quốc hội”… Theo báo cáo của Hội đồng bầu cử Thành phố Hà Nội, trong tổng số hồ sơ tranh cử đại biểu quốc hội khóa XV, Thành phố đã tiếp nhận hơn 30 hồ sơ tự ứng cử. Trong đó, một số đại biểu tự ứng cử là các nhà dân chủ tự do. Họ lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận để khiếu kiện hoặc dùng truyền thông để đánh bóng tên tuổi, lừa phỉnh những người dân nghèo khổ, cả tin. Dưới mác là các nhà dân chủ lợi dụng quyền tự ứng cử nhằm truyền bá những luận điểm xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước trên các đài phát thanh, các kênh truyền hình. Mục đích của những phần tử phản động này là kích động sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” [4] trong nội bộ cán bộ Đảng và Nhà nước.
Trong thực tế, ngày 15-01-2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN hướng dẫn quy trình hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, trong đó nêu rõ cơ cấu và điều kiện của Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nghị quyết đã nêu rõ quy định chung về các tiêu chuẩn của Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Theo đó, các đại biểu phải bảo đảm về trình độ văn hóa, năng lực, sức khỏe và uy tín, đặc biệt là phải có điều kiện để tham gia các kỳ họp của Quốc hội. Trải qua 3 lần hiệp thương, nhiều đại biểu có trình độ năng lực cao nhưng không đủ phẩm chất chính trị, không có uy tín với cử tri, với Nhân dân thì không thể trở thành ứng cử viên để Nhân dân bầu. Rõ ràng, nhiều người tự ứng cử, thoáng nhìn qua có thể họ có tinh thần thái độ chính trị tạm chấp nhận được, nhưng khi không qua được các kỳ hiệp thương đã lập tức bày tỏ quan điểm, chính kiến sai trái về Đảng và Chính phủ. Với những đối tượng này, cử tri hiểu rằng những trường hợp này tham gia vào Quốc hội vì mục đích riêng của họ. Những thành phần đó luôn nặng về “chống” chứ không phải “xây” nên trong quá trình hiệp thương, cử tri có điều kiện để nhìn nhận và đánh giá chính xác. Như vậy, việc các đại biểu ứng cử không qua được các vòng hiệp thương là do uy tín, trách nhiệm của họ đối với xã hội chưa cao. Chính vì vậy, để lựa chọn những đại biểu đại diện cho quyền lợi của Nhân dân phải trải qua các kỳ hiệp thương để cử tri có thể nhận diện các phần tử xấu, lợi dụng việc tự ứng cử để chống phá cuộc bầu cử ở Việt Nam.
Hơn thế, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, các phần tử phản động đã liên kết với các trang mạng nước ngoài để đưa những thông tin sai lệch, thiếu trung thực về “dân giám sát”,“dân thụ hưởng” với những luận điệu như: “Bầu cử chỉ là màn kịch dân chủ do Đảng đạo diễn”, “Đảng Cộng sản đang độc diễn trong bầu cử”, “Không thể có dân chủ khi Đảng Cộng sản lãnh đạo cuộc bầu cử”, “hiệp thương chỉ là cái cớ để Đảng Cộng sản đưa cán bộ của mình vào để tạo nên phe cánh”, “cuộc bầu cử chỉ là hình thức”, “mọi việc đã an bài”, “Bầu cử chỉ là phân chia quyền lực”… Để đánh trực diện vào những luận điểm phản động đó, Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân”[5], và như vậy Đảng tập trung lãnh đạo cuộc bầu cử để xây dựng chính quyền Nhân dân. Do đó, cuộc bầu cử được thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật, phát huy được quyền làm chủ của Nhân dân.
Rõ ràng, hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân ở Việt Nam đã thể hiện đúng hình thức Đảng cử, dân bầu. Bởi lẽ, Đảng chỉ giới thiệu những gương mặt ưu tú, còn Nhân dân có quyền bầu lên những đại diện ưu tú đại diện cho tiếng nói của mình. Trong quy trình bầu cử: “Chỉ có mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mới có quyền hiệp thương, lựa chọn người đủ tiêu chuẩn ra ứng cử, bầu cử để cá nhân đó trở thành những đại biểu thực sự là những người của dân, sống vì dân”[6]. Quy trình bầu cử được thực hiện từ tổ, từ phường, nghĩa là Nhân dân tại cơ sở có quyền lựa chọn những cá nhân đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện, và xem xét đại biểu ấy có xứng đáng hay không để tiến hành bầu cử.
Như vậy, việc lựa chọn đại biểu ứng cử, bầu cử được thực hiện nghiêm túc, từng bước từ cấp cơ sở đi lên để lựa chọn những đại biểu ưu tú đại diện nói lên tiếng nói của quần chúng nhân dân với các cơ quan quyền lực của Nhà nước. Quá trình đó được thực hiện theo phương châm: lấy tiêu chuẩn chất lượng làm trọng tâm, không vì cơ cấu mà giảm thấp tiêu chuẩn.
Ngoài ra, một số phần tử chống phá còn xuyên tạc quyền hưởng thụ của Nhân dân hòng gieo rắc sự hoài nghi trong một bộ phận quần chúng nhân dân. Với những luận điệu như: “làm cán bộ không phải bỏ vốn đồng nào mà thu lợi nhuận lớn”, “cán bộ sướng nhất là đặc quyền đặc lợi”, “người dân được quyền làm những việc mà hiến pháp và luật không cấm, còn các cơ quan công quyền được phép làm những việc mà luật pháp cho phép”. Xảo trá hơn, chúng tuyên truyền: “trên cửa miệng của quan đối với dân chúng chỉ là những câu khẩu hiệu sáo rỗng”, “quan chỉ thích nghe những câu tung hô, khen ngợi không có giá trị”, “nếu nhân dân phát huy quyền làm chủ, bày tỏ quan điểm trước vấn nạn thì bị xem là các phần tử tuyên truyền chống phá nhà nước”. Hoặc, chúng xuyên tạc: “Người dân không có quyền kiểm tra các quan”hoặc xuyên tạc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra nhưng không được hưởng”. Các thế lực phản động còn tuyên truyền “nhân dân không có quyền biết”, “quyền hưởng thụ của nhân dân bị bóp nghẹt bởi lũ quan tham”, “nhân dân chỉ biết nai lưng làm lụng cho các quan hưởng”… Những luận điệu xuyên tạc đó nhằm đánh vào tâm lý của Nhân dân, làm giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Chính phủ, vào đội ngũ cán bộ công quyền, gieo rắc tư tưởng hoài nghi, kích động trong Nhân dân. Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng và Chính phủ phải bản lĩnh, sáng suốt, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác của Nhân dân để nhận diện, kiên quyết, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái thù địch. Sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân là vũ khí sắc bén để chống lại các luận điệu xấu, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
3. Thực tiễn của hoạt động “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội có vai trò quan trọng nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Nhờ có sự giám sát chặt chẽ của quần chúng nhân dân mà hệ thống chính trị ở Việt Nam đang ngày càng vững mạnh, góp phần to lớn vào thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trước hết, quyền giám sát của Nhân dân thông qua hoạt động chất vấn của Quốc hội. Để phát huy vai trò giám sát của Nhân dân, trong những năm gần đây, hoạt động chất vấn của Quốc hội đã có sự đổi mới cả về hình thức và nội dung. Hoạt động chất vấn đã coi trọng chất lượng, đề cao tinh thần xây dựng dân chủ công khai, hoạt động tranh luận đã thể hiện ý thức trách nhiệm của người được chất vấn về những vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, của Nhân dân. Nhờ đó, Quốc hội đã thực hiện tốt chức năng giám sát có trọng tâm, trọng điểm góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hoạt động thực thi Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động chất vấn được tập trung vào những vấn đề nóng, bao quát trên nhiều lĩnh vực. Thông qua hoạt động chất vấn, Quốc hội đã kịp thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn đời sống của Nhân dân. Trong kỳ Quốc hội khóa XIV, các đại biểu quốc hội chuyển từ tham luận sang tranh luận mà ở đó có nhiều đại biểu phát biểu bằng một trái tim yêu nước, thấu hiểu những bất cập trong xã hội, thiệt thòi của người yếu thế, lên án tham nhũng và cái xấu. Thậm chí, nhiều đại biểu còn thẳng thắn trực tiếp chất vấn các Bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội về những vấn đề nóng mà Nhân dân, cử tri cả nước quan tâm như vấn đề sử dụng các gói kích cầu; quản lý điều hành lãi suất ngân hàng; quản lý thị trường ngoại hối; thị trường vàng; vấn đề cấp giấy phép và quản lý các dự án xây dựng khu đô thị mới; tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông đô thị; phòng chống ô nhiễm môi trường trong sản xuất kinh doanh…
Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa XV, trước khi bước vào kỳ bầu cử chính thức, thông qua tiếp xúc cử tri, các đại biểu tranh cử trình bày chương trình hành động để thể hiện cái tâm, cái tầm, thể hiện bản lĩnh trí tuệ và lời hứa của họ với Nhân dân, với cử tri. Do đó, thông qua các đợt tiếp xúc, cử tri đã gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của mình đến các đại biểu ứng cử. Tuy nhiên, trong thực tế nếu chỉ thông qua những cuộc tiếp xúc cử tri để vận động thì đại biểu tranh cử không thể thể hiện hết năng lực, trình độ, phẩm chất của mình, thậm chí có nhiều trường hợp bày ra những chiêu trò vận động bầu cử thiếu lành mạnh như dùng vật chất, truyền thông để lấy lòng cử tri. Chính vì vậy, qua những buổi tiếp xúc cử tri, người dân, cử tri sẽ giám sát đại biểu Quốc hội từ khi họ trúng cử đến khi hết nhiệm kỳ.
Trong những năm gần đây, tệ tham nhũng đang trở thành một mối đe dọa tiềm ẩn đến sự an nguy của chế độ, trở thành vật cản to lớn cho quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn với tính chất phức tạp ở nhiều lĩnh vực lần lượt bị đưa ra ánh sáng pháp luật, trong đó một phần không nhỏ chính nhờ công tố giác của Nhân dân. Khởi đầu từ những lá đơn thư tố giác của Nhân dân để cơ quan có thẩm quyền vào cuộc tìm ra chứng cứ. Theo báo cáo của Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp trong năm 2020 đã thụ lý 350 vụ/962 bị can; đã giải quyết 246 vụ/692 bị can, đạt 75,4%. Tòa án Nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 436 vụ với 1.175 bị cáo; đã xét xử sơ thẩm 269 vụ, 645 bị cáo phạm các tội tham nhũng[7]. Cũng theo số liệu báo cáo từ Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016-2021), các Tòa án đã đưa ra xét xử nghiêm 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội[8]. Những con số nêu trên mới chỉ là một phần nổi của tảng băng chìm mà Nhân dân phát hiện được để tố giác với cơ quan có thẩm quyền vào cuộc, làm sáng rõ. Qua đó cho thấy, vai trò của “dân giám sát” là rất quan trọng.
Nhờ được “dân giám sát” nên vấn đề mở rộng dân chủ trực tiếp đối với Nhân dân ngày càng được hoàn thiện. Đây là chủ trương đúng đắn, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội để Nhân dân có quyền tham gia đấu tranh chống tham nhũng. Theo báo cáo của Bộ Nội Vụ, có khoảng trên 90% các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền xã, phường, thị trấn đã công khai phương hướng, nhiệm vụ công tác, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, dự toán thu chi các loại quỹ, dự án, các khoản huy động xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi để Nhân dân tham gia giám sát.
Đối với Mặt trận, tính đến 6 tháng đầu năm 2021 đã phân loại được 9.829 Ban Thanh tra nhân dân, 75,90% hoạt động khá, chỉ có 16,02% hoạt động yếu. Hiện tại có 100% xã, phường thị trấn có Ban Thanh tra nhân dân. Theo thống kê của 18 tỉnh, thành phố, Thanh tra nhân dân đã chuyển 97.036 đơn thư và chính quyền đã xem xét, giải quyết trả lời 80.147 đơn thư chiếm 82,6%. Đối với các doanh nghiệp, theo báo cáo của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, nhiều địa phương có tỷ lệ các doanh nghiệp xây dựng quy chế dân chủ đạt tỷ lệ cao như Quảng Ninh với 98%, Bắc Giang với 95%, Đồng Nai với 94%, Thành phố Hồ Chí Minh với 91%…[9].Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, theo báo cáo của Chính phủ cho biết 100% xã, phường, thị trấn đã thực hiện tốt nội dung của quy chế dân chủ; 100.000 trên tổng số 145.000 đơn vị thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố đã trực tiếp bầu cấp lãnh đạo (gọi chung là trưởng thôn)[10]. Từ những con số trên cho thấy dân chủ đang ngày càng được mở rộng, vấn đề “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” được phát huy thông qua đó phát hiện các hành vi tham nhũng.
Ngoài ra, quyền giám sát và quyền hưởng thụ của Nhân dân còn thể hiện thông qua việc Nhân dân tham gia thảo luận, góp ý kiến vào các chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước. Qua các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp, Nhân dân đã đóng góp hàng triệu ý kiến góp ý. Đặc biệt, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII chỉ trong hơn 1 tháng đã thu nhận hàng triệu ý kiến góp ý với Đảng, bổ sung và làm sâu sắc thêm nhiều vấn đề lớn, quan trọng. Đồng thời, Nhân dân đã đóng góp hàng vạn ý kiến với Đảng và Nhà nước qua các kỳ họp Quốc hội và Hội đồng nhân dân, điều đó các cấp thể hiện ý chí và nguyện vọng đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ tham gia xây dựng đường lối chính sách, Nhân dân còn tích cực tham gia đánh giá, góp ý vào việc tổ chức triển khai thực hiện đường lối chủ trương, chính sách của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước. Ngoài ra, góp ý về năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo giữ vị trí chủ chốt. Từ năm 2015-2020, Văn phòng Trung ương Đảng đã tiếp nhận và xử lý 13.948 lá thư của các cán bộ, Nhân dân và đảng viên. Trong đó, có hơn 30% đơn thư phản ánh, kiến nghị, góp ý kiến về công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, chống tham nhũng. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 87 nghìn cán bộ, đảng viên, trong đó, có trên 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý[11]. Cùng với việc mở rộng dân chủ thì vấn đề “dân giám sát”,“dân thụ hưởng” trong đấu tranh chống tham nhũng đã có chuyển biến về phương thức, Nhân dân được biết nhiều hơn các thông tin về những vụ án tham nhũng lớn thông qua nhiều hình thức và theo dõi đến cùng các vụ việc được giải quyết như thế nào. Từ đó, Nhân dân có thể bày tỏ thái độ, tạo thành dư luận buộc cơ quan có thẩm quyền xem xét lại nếu như chưa hợp lý.
Thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, với quan điểm phải dân chủ từ cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương IV, Nhân dân có quyền giám sát những khoản hỗ trợ kinh phí của Chính phủ, đồng thời có quyền hưởng thụ những thành quả do các quốc sách của Đảng và Nhà nước mang lại. Chính vì vậy, phong trào xây dựng nông thôn mới là mô hình điển hình thể hiện rõ quyền giám sát và quyền thụ hưởng của Nhân dân. Nhiều vấn đề nóng như: thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, làm đường giao thông nông thôn, xây dựng các công trình công cộng được Nhân dân giám sát và được chính quyền nhanh chóng giải quyết. Nhờ sự đồng sức, đồng lòng của Nhân dân đã đưa phong trào xây dựng nông thôn đạt nhiều kết quả. Nhân dân được hưởng thụ cơ sở hạ tầng với 100 % đường nông thôn được làm mới, 99% đường ngõ xóm được cứng hóa, hơn 100% công trình thủy lợi được nâng cấp, làm mới... Bên cạnh đó, các tiêu chí về văn hóa - xã hội, môi trường cảnh quan cũng được triển khai hiệu quả tạo môi trường sống lành mạnh cho Nhân dân. Thành quả đó cho thấy, mọi chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước luôn hướng đến Nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cũng chỉ vì mong muốn Nhân dân được hưởng những thành quả tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Chính vì vậy, để “dân thụ hưởng” đòi hỏi mọi hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
“Quyền thụ hưởng” còn được thể hiện tại Điều 34 của Hiến pháp năm 2013 như: "Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội"[12]; Tiếp đó, tại Điều 59 tiếp tục quy định: "Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội"[13]. Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ: "Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước... Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn khác"[14]. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, đảm bảo trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”[15]. Đồng thời, tiến hành “cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững”[16]. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo đảm quyền an sinh xã hội như:
Trên lĩnh vực việc làm và thị trường lao động, trong Bộ luật Lao động (bổ sung và sửa đổi năm 2012) đã chú trọng tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm; tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp… Trên lĩnh vực bảo hiểm xã hội, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý nhằm điều chỉnh các quan hệ bảo hiểm xã hội như: Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22-12-2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc; Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28-12-2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện; Nghị định số 61/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP về Bảo hiểm thất nghiệp ngày 15-7-2020… Trên lĩnh vực ưu đãi xã hội, hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao được ban hành nhằm trợ giúp đối với những đối tượng bảo trợ xã hội như: Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13-4-2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo hiểm xã hội; Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21-10-2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội ngày 1-7-2021… Có thể khẳng định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã cơ bản tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước.
Trong quá trình thực hiện chính sách, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được Nhà nước bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được nguyện vọng của Nhân dân. Nhờ đó, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là đối với các mục tiêu về giảm nghèo, bình đẳng giới và giáo dục. Trong giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh chóng từ 8,23% (năm 2016) xuống 6,7% (năm 2017) xuống 5,23% (năm 2018); năm 2019 (3,75%) và đến năm 2020 (2,75%)[17]. Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN[18]. Với những kết quả đạt được, một lần nữa khẳng định: ngoài những chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước còn chú trọng “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”[19]. Bởi lẽ, chỉ khi nào kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội mới tạo ra sự đồng thuận cao trong Nhân dân, tạo nên sức mạnh đoàn kết đưa kinh tế - xã hội đất nước phát triển, đưa vị thế của dân tộc Việt Nam vươn xa ra thế giới.
Trong điều kiện lịch sử mới, cơ cấu lợi ích xã hội và mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ các tầng lớp quần chúng Nhân dân liên tục phát sinh và biến đổi, ngày càng trở nên phức tạp nếu biết khơi dậy tinh thần “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” sẽ thêm nguồn sức mạnh để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đây là yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh cộng đồng trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Một số giải pháp
Hiệu quả của hai thành tố “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau. Chính vì vậy, để hai thành tố ấy phát huy được hiệu quả, chúng ta cần:
Thứ nhất, mở rộng quyền dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở.
Để phát huy quyền giám sát, quyền thụ hưởng cần mở rộng quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân, nhất là ở cấp cơ sở. Chính vì vậy, cần hoàn thiện các cơ chế mở rộng, phát huy dân chủ, đảm bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều có sự tham gia góp ý xây dựng của Nhân dân, phản ánh đúng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của Nhân dân, phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân phải kết hợp chặt chẽ tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hoá bằng pháp luật các quyền làm chủ của người dân trên các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”[20] để đem lại niềm tin cho Nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, tăng cường quyền giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ chức chính trị - xã hội trên nhiều lĩnh vực.
Mặt trận phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để Nhân dân có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính Nhà nước nói riêng và quản lý Nhà nước nói chung. Vì vậy, các cơ quan Nhà nước phải giúp đỡ về vật chất và tinh thần để cho các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ đắc lực của Nhân dân trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước của mình. Đồng thời, cần tạo điều kiện cho Nhân dân tham gia vào hoạt động tự quản cơ sở, ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc. Đây là những hoạt động do chính Nhân dân tự thực hiện và có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau để thực hiện quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Việc mở rộng hình thức tham gia của Nhân dân vào hoạt động quản lý Nhà nước không chỉ đòi hỏi từ quá trình hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý Nhà nước sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, gắn chặt chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội
Để phát huy hai thành tố “dân giám sát”,”dân thụ hưởng” thì hai yếu tố phát triển kinh tế và chính sách xã hội có mối quan hệ với nhau. Bởi lẽ, khi phát triển kinh tế của đất nước có nghĩa là quốc gia, dân tộc được nâng lên tầm mới. Khi kinh tế phát triển sẽ hỗ trợ phục vụ cho đời sống của Nhân dân. Chính vì vậy, ngoài phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến chính sách xã hội, trong đó bao gồm các vấn đề liên quan đến đời sống Nhân dân như chính sách an sinh xã hội và xóa đói, giảm nghèo; chính sách về sức khỏe cộng đồng; chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội; chính sách ưu tiên thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo… Chính vì vậy, khi Đảng và Nhà nước ban hành những đường lối, chính sách phát triển kinh tế thì cũng phải đồng thời nghiên cứu ngay đến chính sách xã hội, nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính sách xã hội phải hướng đến tất cả các đối tượng, không để ai bị bỏ lại phía sau nhằm bảo đảm mọi người dân ai cũng được hưởng thụ. Kinh tế càng phát triển thì Nhà nước càng có thêm động lực để thực hiện công bằng tiến bộ, bảo đảm quốc phòng, an ninh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân Anh (2021), “Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nêu 9 thành tựu và 5 hạn chế của ngành giáo dục”, https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/nguoi-thay/9-thanh-tuu-va-5-han-che-cua-nganh-giao-duc-708724.html, 27/01/2021.
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2020), “Chống tham nhũng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/chong-tham-nhung-khong-co-vung-cam-kh ong-co-ngoai-le-bat-ke-nguoi-do-la-ai-569834.html, 12/12/2020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Thu Hằng (2021), “Đã xét xử 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng”, https://dangcongsan.vn/thoi-su/da-xet-xu-7463-vu-an-tham-nhung-chuc-vu-kinh-te-nghiem-trong-577202.html, 25/3/2021.
5. Phan Thị Hiên (2008), Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Mai Hữu (2020), “Khởi tố 290 vụ với 616 bị can phạm tội về tham nhũng trong năm 2020” của tác giả Mai Hữu, https://www.sav.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/PrintTL.aspx?idb=2&ItemID=37951&l=/noidung/tintuc/Lists/TinTucSuKieN, 26/10/2020.
7. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, ngày 28/11/2013, Hà Nội.
9. TTXVN/Vietnam+ (2020), “Tỷ lệ hộ nghèo giảm ấn tượng trong giai đoạn 2016-2020”, https://www.vietnamplus.vn/ty-le-ho-ngheo-giam-an-tuong-trong-giai-doan 20162020/681988.vnp#&gid=1&pid=1, 13/12/2020.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2013. Tập 6, tr.232.
[2] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 6.
[3] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 7.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật; H. 2021, t.1, tr.96.
[5] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 2.
[6] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 21.
[7]https://www.sav.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/PrintTL.aspx?idb=2&ItemID=37951&l=/noidung/tintuc/Lists/TinTucSuKien
[8] https://dangcongsan.vn/thoi-su/da-xet-xu-7463-vu-an-tham-nhung-chuc-vu-kinh-te-nghiem-trong-577202.html
[9] Phan Thị Hiên: Luận văn thạc sĩ luật học về dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2008, tr.54.
[10] Phan Thị Hiên: Luận văn thạc sĩ luật học về dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2008, tr.54.
[11] https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/chong-tham-nhung-khong-co-vung-cam-khong-co-ngoai-le-bat-ke-nguoi-do-la-ai-569834.html
[12] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 8.
[13] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 12.
[14] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Toàn tập, Nxb. Lao động, H. 2014; tr. 14.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật; H. 2021, t.1, tr.150.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật; H. 2021, t.1, tr.150.
[17] https://www.vietnamplus.vn/ty-le-ho-ngheo-giam-an-tuong-trong-giai-doan 20162020/681988
[18] https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/nguoi-thay/9-thanh-tuu-va-5-han-che-cua-nganh-giao-duc-708724.html
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật; H. 2021, t.1, tr.96.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự Thật; H. 2021, t.1, tr.47.
Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Đình Phong